Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi
Hàn Phi Tử
Chương 6
PHÁP
Nho gia dùng chữ “pháp” theo nghĩa phép tắc, như trong các từ ngữ “tiên
vương chi pháp”, “hậu vương chi pháp” (phép tắc của tiên vương, của hậu
vương); còn Pháp gia nói tới “pháp” là luôn luôn trỏ pháp luật.
Trong thiên Định pháp, Hàn Phi định nghĩa chữ “pháp” như sau: “Pháp là
hiệu lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là
thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy
bề tôi sẽ theo pháp”.
法者,憲令著於官府,賞罰必於民心,賞存乎慎法,而罰加乎姦令者
也;此人臣之所師也。
(Pháp giả hiến lệnh trứ ư quan phủ; thưởng phạt tất ư dân tâm, thưởng tồn
hồ thận pháp, nhi phạt gia hồ gian lệnh giả dã; thứ nhân thần chi sở sư dã).
Thiên Hữu độ, ông ví pháp luật với dây mực, cái thuỷ chuẩn, cái qui, cái
củ, tức những đồ dùng làm tiêu chuẩn. Pháp luật tức là một thứ tiêu chuẩn
để biết đâu là chính, đâu là tà, để khen đúng người phải, trách đúng kẻ
quấy.
Trong phần I (tiểu sử Tử Sản) chúng tôi đã xét sự tiến triển của ý niệm về
pháp luật ở thời Xuân Thu và Chiến Quốc ra sao, và các pháp gia từ Quản
Trọng tới Thương Ưởng đã lần lần lấy pháp luật thay cho lễ, bỏ tính cách
giai cấp của lễ ra sao. Có điều đáng để ý là sự tôn quân càng tăng thì ý
niệm về pháp luật càng mạnh. Nho gia tuy tôn quân nhưng coi vua là người
chỉ nhận sứ mạng của trời, mà ý dân là ý trời, nên đòi vua phải có đạo đức
(vua có ra vua thì bề tôi mới giữ đạo bề tôi) ông vua nào không có tư cách