bằng sắt, nhưng đỉnh chỉ bày trong cung hay ở miếu đường, dân thường
không tới coi được nên kém tính cách phổ biến;
b) Sai các quan lại dạy cho dân. Đây là chính sách “lấy pháp luật mà dạy
dân” “dùng quan lại làm thầy” mà Hàn Phi đã nói trong thiên Ngũ đố. “Dĩ
pháp vi giáo” tức là đem bộ luật làm sách giáo khoa, “dĩ lại vi sư” tức là
dùng quan lại làm giáo viên, như vậy pháp luật vừa được thống nhất vừa
được phổ biến.
Vậy từ thời Chiến Quốc, người Trung Hoa đã có ý dạy pháp luật chẳng
những cho quan lại mà cả cho dân chúng nữa. Chủ trương đó hợp lý và
thực tế, nếu được áp dụng lâu, chẳng hạn một thế kỷ, thì chưa biết chừng
Pháp gia sẽ gây được một đảng phái chính trị có quyền hành lớn mà sự diễn
biến của lịch sử Trung Hoa có thể đã khác. Nhà Tần bị diệt rồi, lại phải đợi
mười hai thế kỷ sau, một nhà cách mạng là Vương An Thạch mới có ý dạy
luật cho kẻ sĩ để sau bổ dụng họ; nhưng ông chưa kịp cải tổ nền giáo dục
khoa cử chuyên về thơ phú đã làm hại nhân tài, thì phe ông đã bị “cựu
đảng” (đảng thủ cựu) lật đổ, mà lối học từ chương lại sống thêm tám thế kỷ
nữa.
*
Thiên Định pháp, Hàn Phi báo pháp và thuật đều là công cụ của đế vương,
không thể thiếu một trong hai cái đó, cũng như ăn và mặc đều cần thiết như
nhau cho cuộc sống cả. Vua có thuật mà bề tôi không có pháp luật thì nước
sẽ loạn; có pháp luật mà vua không dùng thuật để biết kẻ gian thì nước có
giàu, mạnh cũng chỉ lợi cho bọn đại thần thôi. Vì vậy Hàn luôn luôn nhắc
các bậc vua chúa phải theo pháp thuật, phải trọng kẻ sĩ giỏi pháp thuật.
Tuy nhiên trong thiên Hữu độ, ông lại bảo:
“Người thi hành pháp luật mà cương cường thì nước mạnh, người thi hành
pháp luật mà nhu nhược thì nước yếu”.
“Nhà cầm quyền nào biết bỏ tư lợi tà tâm mà theo phép công thì dân sẽ
yên, nước sẽ trị; biết bỏ hành động riêng tư mà làm theo phép công thì binh
sẽ mạnh, địch sẽ yếu. Cho nên vua (theo pháp độ mà) xét sự thành bại của
việc, dùng người biết giữ pháp độ mà đặt lên trên các quần thần thì không
kẻ nào gian trá gạt vua được; (theo pháp độ mà) xét sự thành bại của việc,