tướng quốc. Nhưng muốn giữ địa vị đó, họ phải đánh át ảnh hưởng của bọn
"cha anh" nhà vua, tức bọn quý tộc cũ, bọn này vốn bảo thủ, muốn bám lấy
quyền lợi, ghét mọi sự cải cách, ghen quyền hành của họ, nên nhiều khi làm
cho họ mất mạng, như trường hợp Ngô Khởi, Thương Ưởng - coi thiên Cô
phẫn trong phần dịch. Sự thăng tiến đó của kẻ sỹ là một nét đặc biệt trong
thời Chiến Quốc.
- Một nét đặc biệt nữa là thời Xuân Thu, các vua chúa còn trọng nhân
nghĩa, vài ba ông còn dùng nhân nghĩa để trị dân; qua thời Chiến Quốc, họ
chỉ dùng thuật. Như vậy một phần do xu thế của đương thời, một phần cũng
do sự thúc đẩy của bọn sỹ kể trên.
Ngươi ta thấy chính sách "nhân chính" dùng nhân nghĩa để trị dân của
Nghiêu, Thuấn mà Khổng, Mạnh đề cao nếu không phải là vu khoát thì
cũng chậm có kết quả, không thể thi hành được.
Tới thời Mạnh Tử còn có một số vua chư hầu thích nghe thuyết nhân chính,
như Tề Tuyên Vương, Lương Huệ Vương, nhưng họ chỉ nghe thôi, chứ
không đủ kiên nhẫn để theo. Như Lương Huệ Vương phàn nàn với Mạnh
Tử rằng đã hết lòng trị nước theo nhân nghĩa, cứu giúp dân nghèo mà sao
kết quả không hơn gì các nước láng giềng, dân số vẫn không đông hơn các
nước ấy. Mạnh Tử đem trận chiến ra giải thích, bảo:
- "Quân hai bên giao chiến, mà quân của nhà vua thua, cởi bỏ áo giáp, kéo
đao thương mà chạy, kẻ chạy trăm bước mà ngừng, kẻ năm chục bước rồi
ngừng. Kẻ chạy năm chục bước có quyền chê kẻ chạy trăm bước không?"
Huệ Vương không đáp, và Mạnh Tử kết luận:
-"Vậy thì nhà vua cũng đừng nên mong nước nhà vua đông dân hơn các
nước chung quanh".
Nghĩa là chưa thấy kết quả chỉ tại chưa thi hành nhân nghĩa đến nơi đến
chốn, còn phải kiên nhẫn nhiều, gắng sức nhiều nữa, mới bấy nhiêu tuy đã
khá hơn các vua khác, nhưng chưa đủ.
Ngay như Đằng Văn Công thành tâm tin thuyết nhân chính, gắng sức thi
hành, nhưng bị Tề, Sở ép ở hai bên, lăm le thôn tính, nên luôn luôn lo sợ
mất nước, mấy lần khẩn khoản xin Mạnh Tử chỉ cho cách đối phó. Mạnh
Tử chẳng đưa ra kế hoạch nào hay cả, trước sau cũng chỉ khuyên ráng cùng