B – DÙNG NGƯỜI.
Qui tắc căn bản của thuật dùng người theo pháp gia là thuyết hình danh.
Người đầu tiên lập thuyết về danh là Khổng tử. Thuyết chính danh của ông
là một thuyết để trị nước: chính danh là để “minh phận”, phân sự sang hèn,
cũng để nhắc nhở nhà cầm quyền nhớ đến bổn phận của họ: đã mang danh
là vua, là cha mẹ của dân thì phải giữ tư cách ông vua, làm tròn sứ mệnh
ông vua, cũng như cái “cô” - một bình rượu – thì phải có khía, có cạnh,
không có khía, có cạnh thì không được gọi là cái “cô” (Luận ngữ -Ung dã –
23 – Cô cất cô, cô tai, cô tai!)
Vì vậy mà chương Tử Lộ, bài 3, khi Tử Lộ hỏi ông nếu được vua Vệ mời
tham chính thì ông sẽ làm gì trước hết, ông đáp phải chính danh trước hết,
vì nếu danh không chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì
việc không thành; việc không thành thì lễ nhạc không hưng, lễ nhạc không
hưng thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết
chỗ nào mà đặt tay chân (tức không biết hành động ra sao)
名不正則言不順,言不順則事不成,事不. 成則禮樂不興,禮樂不興
則刑罰不中,刑罰不中則民無所措手足。
(Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận, tắc sự bất thành, sự bất
thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng; hình
phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc).
Mạnh tử cũng theo thuyết đó nhưng gay gắt hơn, bảo vua mà tàn bạo như
Trụ thì không phải là vua, chỉ là một thất phu, vậy giết Trụ không phải là
thí vua mà chỉ là giết một tên thất phu (tàn tặc chi nhân vị chi thất phu; văn
tru nhất phu Trụ hĩ, vị văn thí quân dã –Lương Huệ Vương, hạ - bài 8).
Rồi sau Công Tôn Long áp dụng nguyên tắc chính danh vào tất cả các lĩnh
vực, chứ không riêng trong lĩnh vực chính trị. Chính danh của ông là để
phân biệt đồng và dị (giống và khác nhau).
Mặc gia cũng chính danh để phân biệt đồng, dị và bước thêm vào khu vực
tri thức luận, vào ngôn ngữ học, chia danh thành ra ba loại: đạt danh (danh
phổ biến, như: vật), loại danh (danh chỉ loài, như: ngựa, mèo) và tư danh
(danh riêng, như nhân danh, địa danh)
Tuân tử tập đại thành Khổng tử, Công Tôn Long và Mặc gia. Mục đích