名參同,上下和調
(Dụng nhất chi đạo, dĩ danh vi thủ, danh chính vật định, danh ỷ vật tỉ…
quân tháo kì danh, thần hiệu kì hình, hình danh tham đồng, thượng hạ hoà
điệu).
Thiên đó, hiển nhiên không phải của Hàn Phi, vì dùng thể văn cân đối bốn
chữ, đôi khi có vần; lại dùng từ ngữ “chính danh” mà chúng tôi không thấy
trong các thiên khác. Nhưng ý nghĩa giống câu này trong thiên Nhị bính:
“Bậc vua chúa muốn ngăn cấm gian tà tất phải xét xem hình và danh có
hợp nhau không, danh là lời nói mà hình là sự việc”.
人主將欲禁姦,則審合刑名;刑名者,言與事也。
(Nhân chủ tương dục cấm gian, tắc thẩm hợp hình danh; hình danh giả,
ngôn dữ sự dã).
Thiên Nạn nhị, Hàn cũng viết:
“Bậc nhân chủ tuy sai khiến bề tôi, nhưng tất phải có độ lượng (tức pháp
độ, pháp luật) làm tiêu chuẩn; việc mà hợp với pháp thì làm, không hợp thì
ngưng; công (tức kết quả) xứng với lời nói thì thưởng, không xứng thì phạt,
dùng quy tắc hình danh mà thu phục bề tôi, lấy độ lượng làm tiêu chuẩn
cho kẻ dưới”.
人主雖使臣必以度量準之,以刑名參之,事遇於法則行,不遇於法則
止;功當其言則賞,不當則罰;以刑名收臣,以度量準下
(Nhân chủ tuy sử thần, tất dĩ độ lượng chuẩn chi, dĩ hình danh tham chi; sự
ngộ ư pháp tắc hành, bất ngộ ư pháp tắc chỉ, công đáng kì ngôn tắc thưởng,
bất đáng tắc phạt; dĩ hình danh thu thần, dĩ độ lượng chuẩn hạ).
“Dùng qui tắc hình danh hợp nhau mà thu phục bề tôi” (dĩ hình danh thu
thần) thì không được nghe lời giới thiệu của người khác mà phải đích thân
xét xem người mình muốn dùng có xứng đáng không, vì người giới thiệu
có thể vì tình riêng, vì tư lợi, vì tinh thần bè đảng mà đề cử hạng bất tài, vô
đức. Mà trong đời, kẻ có tài chưa nhất định đã đáng tin, kẻ có đức lại chưa
nhất định là có tài
, cho nên việc bổ nhiệm người, nếu không có thuật thì
sẽ thất bại.
Muốn cho khỏi bị gạt, khỏi thất bại thì phải rất thận trọng, tham bác ý kiến
của nhiều người, đích thân xét tài đức rồi mới giao việc.