một bề tôi không được giao trách nhiệm đó để phòng họ. Sở dĩ vậy là vì
chúa nghĩ rằng người không được giao trách nhiệm coi người được giao
trách nhiệm là kẻ thù; nhưng hậu quả ngược lại, chính chúa bị người không
được giao trách nhiệm đó chi phối… Chúa bỏ pháp luật mà dùng bề tôi để
đề phòng bề tôi, thì những kẻ thân yêu nhau kết bè đảng mà khen lẫn nhau,
những kẻ ghét nhau cũng kết bè đảng để chê lẫn nhau, hai bên khen chê lẫn
nhau đó tranh nhau thì vua sẽ bị mê loạn”.
Vậy cứ tin họ, để họ làm việc, rồi tùy họ làm việc được hay không mà
thưởng phạt họ đúng pháp luật chứ không phải cho người dòm ngó họ. Vả
lại, đã có lệ trên dưới tố cáo lẫn nhau thì cần gì phải dùng thêm sự dòm ngó
nữa.
Trong việc dùng người, quy tắc là như vậy, nhưng đó chỉ là để cho các hạng
vua chúa tầm thường theo; còn hạng minh chủ có pháp thuật thì chẳng cần
theo qui tắc nào cả, dù là phản thần như Dương Hổ cũng dùng được (coi
tiết Trừ gian, chương VII), mà dù có hai trọng thần cũng không sao như Tề
Hoàn Công dùng Quản Trọng lẫn Bão Thúc, Thành Thang dùng cả Y Doãn
lẫn Trọng Huỷ (Nạn thất); trái lại, vua hôn ám, không có pháp thuật thì
dùng người tốt họ cũng sẽ phản mình, dùng hai trọng thần thì họ sẽ tranh
quyền nhau mà kết giao với nước ngoài, chỉ dùng một trọng thần thì họ sẽ
chuyên quyền mà giết mình. Thành hay bại đều do tư cách, tài năng của
vua hết. Tuy trọng pháp thuật nhưng yếu tố người vẫn là chính; vậy pháp trị
hay nhân trị đều cần có người tốt cả, chỉ khác một bên trọng pháp thuật,
một bên trọng nhân nghĩa, lễ giáo.
C - THUẬT VÔ VI
Trung Hoa có điểm khác Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây là các triết gia lớn
của họ đều quan tâm tới đời sống của dân, đều muốn cứu đời bằng chính
trị, mà bàn về chính trị thì hầu hết họ đều lấy sự “vô vi” làm lí tưởng.
Người ta quen cho “vô vi” là danh từ của Lão, Trang chỉ vì hai nhà ấy dùng