nó nhiều nhất, sự thực thì chính Khổng tử đã dùng nó trước tiên, mà đa số
học giả ngày nay nhận rằng Lão có nhiều phần chắc là sinh sau Khổng.
Luận ngữ, chương Vệ Linh công, bài 4, chép : “Khổng tử bảo : “Không làm
gì mà thiên hạ được trị, là vua Thuấn đó chăng ? Ông có làm gì đâu ? Chỉ
cung kính giữ mình, (ngồi trên ngôi) quay mặt về hướng Nam, thế thôi.”
子曰。無爲而治者。其舜也與。夫何爲哉。恭己正南面而已矣。
( Tử viết : Vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư ? Phù hà vi tai ? Cung kỉ, chính
Nam diện nhi dĩ hỉ). Chu Hi chú giải rằng : bậc thánh nhân có đức cao, cảm
hoá được dân, nên chẳng cần làm gì mà thiên hạ cũng bình trị. Sở dĩ vua
Thuấn được như vậy, một phần là do nối nghiệp vua Nghiêu, lại được một
số bề tôi hiền giúp sức.
Sau Khổng tử tới Lão tử. Chương XLVIII Đạo đức kinh, ông viết :
“Theo đạo thì càng ngày càng bớt, bớt rồi lại bớt đến mức vô vi… Vô vi thì
không cái gì không trị…”
為道日損。 損之又損,以至於無為(...)無爲則無不治
( Vị đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi… Vô vi tắc vô bất trị… )
Chương LVII, ông còn nói rõ hơn :
“Ta vô vi mà dân tự hoá, ta ưa tĩnh mà dân tự sửa mình, ta không mưu tính
gì mà dân tự giàu, ta không ham muốn mà dân tự thành chất phác”
我無爲而民自化。我好靜而民自正。我無事而民自富。
(Ngã vô vi nhi dân tự hoá, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nhi dân
tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác).
Ông cho rằng cứ theo đạo, tức theo tự nhiên, thì mọi sự hoàn hảo. Cứ cho
dân tự lo lấy thì ai nấy được thoả ý mà trên dưới yên ổn, nhà cầm quyền
càng can thiệp thì càng gây rối : bắt dân đóng thuế nặng thì dân sẽ đói,
ruộng đất bỏ hoang, hình phạt càng nghiêm thì dân càng phạm tội. Phải
giảm chính phủ, đừng dùng nhân nghĩa, lễ giáo : “Mất Đạo rồi mới có Đức,
mất Đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới có nghĩa, mất nghĩa rồi mới có
lễ”. Trí tuệ cũng phải bỏ (khí trí), vì có bỏ “trí” rồi mới trở về tự nhiên
được. Chỉ cần cho dân khỏi đói, khỏi rét, rồi để dân muốn làm gì thì làm.
Ông muốn trở về chế độ cộng sản nguyên thuỷ : nước nhỏ, dân ít, không
dùng khí cụ, xe thuyền, không có gươm giáo, không có văn tự, không ai đi