Xét chung thì Hàn Phi luôn luôn theo đúng được ba qui tắc trên: văn ông
sáng sủa, lập luận rành mạch (thỉnh thoảng chúng ta gặp những chỗ khó
hiểu là do người sau chép sai hoặc thiếu và do có những chữ cổ ngày nay
không dùng nữa), cho nên đọc không mệt như Nam Hoa kinh mà cũng
không gây những cuộc tranh biện bất tận cho người sau như Đạo đức kinh;
văn ông lại bình dị, không tô chuốt (chúng ta có cảm tưởng rằng thời ông
người ta nói sao thì ông viết vậy); còn tính cách thiết thực, không hư ngôn,
không quái đản, ngụy biện thì càng hiển nhiên hơn nữa. Độc giả đọc bất kì
thiên nào trong phần dịch ở sau, nhất là các thiên Hiển học, Ngũ đố, Thuế
nan, Cô phẫn sẽ nhận thấy rõ, chúng tôi khỏi phải dẫn chứng ở đây thêm
rườm.
Về qui tắc cuối: phải tham nghiệm, có thấy đúng rồi mới dùng làm chứng
cứ, Hàn Phi có hai điểm đáng khen:
- Ông hiểu biết rộng, chịu tìm tòi, thu thập rất nhiều cố sự để dẫn chứng:
sáu thiên dài Nội trừ thuyết thượng và hạ, Ngoại trừ thuyết tả thượng hạ,
Ngoại trừ thuyết hữu thượngvà hạ với bốn thiên Nạn, hai thiên Thuyết lâm,
đã gồm trên 200 cố sự rồi; nếu kể cả những cố sự rải rác trong các thiên
khác thì con số chắc tới 300. Nhờ vậy Hàn Phi Tử khác hẳn Tuân Tử, nhiều
màu sắc hơn, đọc vui hơn; nó cũng khác hẳn Liệt Tử vì Liệt Tử tuy cũng có
mấy trăm cố sự nhưng phần lí thuyết, biện luận gần như thiếu hẳn. Hàn Phi
dung hoà được bút pháp của hai nhà đó.
- Ông lại có tinh thần phê phán, biết tồn nghi: gặp một cố sự nào có hai
thuyết khác nhau, ông ghi cả hai. Trong sáu thiên Nội trừ và Ngoại trừ có
cả chục trường hợp tồn nghi như vậy, chúng tôi chỉ xin đan cử một truyện
2d/ Nội trừ thuyết thượng về phép nhà Ân trị tội kẻ đổ tro
ra đường
nhưng không nói dùng hình phạt nào. Tử Cống cho vậy là nghiêm khắc, hỏi
Khổng Tử, Khổng Tử đáp như vậy là biết đạo trị nước, rồi giảng tại sao: