thu ấn tín lại. Lời nào khoa trương thì bề trên xét kỹ từ đầu đến cuối xem
có gian tình không, nếu có thì sẽ nổi giận mà trừng phạt. Lời nào không có
chứng cớ mà khi thi hành không có kết quả như đã nói thì là lời vu khoát,
bề tôi mà vu khoát thì phải trị tội. Lời nói phải thiết thực, lí thuyết phải có
chỗ dùng, như vậy những lời nói thiên vị của bè đảng không dám tâu lên
vua (…). Bề tôi đưa ra nhiều ý kiến là để tỏ rằng mình có trí và khiến vua
phải tự lựa lấy một ý kiến, mà mình tránh được (trách nhiệm và) tội. Cho
nên chỉ hạng vua dở mới để bề tôi đưa ra nhiều ý kiến. Đừng để cho bề tôi
đưa ra một ý kiến thứ nhì, mà ý kiến đó với ý kiến thứ nhất giá trị như
nhau
, bắt bề tôi lời nói phải phù hợp với hành động sau này, để biết họ
nói thực hay nói láo. Đạo (thuật) của bậc minh chủ là không cho bề tôi đưa
ra hai ý kiến để bắt họ phải chịu trách nhiệm về một ý kiến thôi; không cho
họ tự ý hành động, phải tham nghiệm lời của họ, xem có đúng, có hợp với
việc, có hiệu quả không; như vậy bọn gian thần không có đường tiến lên
được. (bỏ tiết 7 và 8)
Chú thích:
Người: Trong nguyên bản có những tiêu đề này (đây cũng là một điểm
đặc biệt của thiên) nhưng đặt ở cuối mỗi đoạn, chúng tôi theo lối trình bày
ngày nay, đưa lên đầu.
Có bản chép là trí lực (trí và sức mạnh).
Có sách giảng là “khó lường như trời”. Thi hành pháp chế tức là thưởng
phạt. Vì vậy chúng tôi hiểu là không thiên vị. Nguyên văn: chủ chi hành
chế dã thiên.
Nguyên văn là nhân (
因), có bản chép là khốn (困).
Có bản chép là “kết trí”: kết hợp các người trí.
Nguyên văn: sự lưu tự thủ. Hai chữ tự thủ chúng tôi không hiểu nghĩa,
không sách nào giảng thông cả.
Nguyên văn: phúng định nhi nộ. Có sách giảng là: ý kiến nêu rồi thì dựa