Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi
Hàn Phi Tử
THIÊN XLV
NGỤY SỬ
(TRỊ NƯỚC BẬY[1])
Thuật
trị nước của thánh nhân gồm có ba : 1, dùng lợi (tức bổng lộc,
thưởng); 2, dùng uy; 3, dùng danh (tức quan tước, khen chê). Lợi để mua
chuộc dân, uy để thi hành lệnh, danh để trên dưới cùng theo (cùng trọng)
. Ngoài ba thuật đó ra, tuy còn những thuật khác, nhưng không gấp
bằng. Nay lợi tuy có mà dân không cảm hoá theo vua, uy tuy còn mà dân
không nghe, quan chức tuy có luật định mà thực (chức) không hợp với
danh (tước)
. Ba cái đó đều còn đấy mà đời thì cứ trị rồi loạn, loạn rồi trị
là tại sao? Tại cái mà vua quí thường trái với cái làm cho nước trị.
*
Đặt ra danh hiệu để tôn trọng, thế mà nay có kẻ coi thường cái danh, khinh
rẻ cái thực (của quan tước), thì đời lại cho cao thượng; đặt ra tước vị để làm
tiêu chuẩn cho sự sang hèn, thế mà kẻ xa lánh bề trên, không cầu được yết
kiến thì đời lại cho là hiền nhân; dùng uy và lợi là để dân thi hành mệnh
lệnh, thế mà kẻ không ham lợi, coi thường cái uy thì đời cho là đáng trọng;
ban bố pháp lệnh để trị nước, thế mà kẻ không tuân pháp lệnh, làm những
điều họ riêng cho là thiện
thì đời lại cho là trung; đặt ra quan tước để
khuyến khích dân, thế mà kẻ thích danh nghĩa, không chịu làm quan thì đời
lại cho là liệt sĩ; đặt ra hình phạt để nắm cái uy, thế mà kẻ khinh pháp luật,
không tránh hình phạt, tội chết thì đời gọi là dũng. Dân cầu danh
cầu lợi như vậy thì kẻ sĩ nghèo đói túng thiếu làm sao không vô núi ở, chịu
khổ thân để tranh danh với thiên hạ cho được? Cho nên đời sở dĩ không trị,
không phải do tội của kẻ dưới mà do bề trên bỏ mất cái thuật, thường quí