làm cho dân giàu.
Có người cho rằng ông yêu dân là vì thủ đoạn, nghĩa là yêu dân không vì
dân mà vì vua, vì quốc gia; chúng tôi nghĩ lời chê đó vô căn cứ và cũng vô
lý: ông vừa làm lợi cho nước, mà lại vừa làm lợi cho dân thì là thành công
lớn, còn đòi gì hơn nữa.
8/ Sau cùng ông cũng chú trọng đến đạo đức, bảo lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn
điều cốt yếu (tứ duy) trong nước, người cầm quyền ráng giữ mà trị dân.
Xét kỹ tám điểm kể trên, hai điểm cuối cùng rất hợp với quan điểm của
Nho gia, điểm 6 cũng hơi giống Nho gia, còn năm điểm đều là nhũng sáng
kiến rất thực tế của Quản Trọng ảnh hưởng lớn đến các Pháp gia sau này.
Cho nên chúng ta có thể coi ông là thuỷ tổ của Pháp gia mà cũng là chiếc
cầu nối Nho gia[6] với Pháp gia, biết dung hoà thực tế với lý tưởng, trọng
kinh tế, võ bị mà cũng biết lễ nghĩa, nhân tín. Công của ông rất lớn chẳng
những đối với Tề, mà đối với cả văn minh Trung Quốc nữa. Cho nên chính
Khổng tử đã hai lần khen ông.
Bài 18 - chương Hiến vấn (Luận ngữ) - "Tử Cống hỏi:
- Quản Trọng không phải là người nhân chăng? Hoàn công giết công tử Củ
(chúa của Quản Trọng), ông ta đã không chết theo mà còn làm tướng quốc
giúp Hoàn công.
Khổng tử đáp:
- Quản Trọng giúp Hoàn công làm bá chủ chư hầu, bình định được thiên hạ.
Dân tới nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì chúng ta đã thành mọi
rợ, đầu dóc tóc, áo cài nút bên trái hết rồi.
Nghiã là Khổng tử nhớ ơn Quản Trọng đã dẹp rợ hồ phương Bắc, cứu nền
văn minh Trung Quốc.
Lần khác ( bài 17 cũng chương trên), Tử Lộ cũng chê Quản Trọng bất
nhân, không chết theo công tử Củ.
Khổng tử đáp:
Hoàn công chín[7] lần họp chư hầu mà không dùng đến vũ lực (binh xa),
đó là nhờ tài sức Quản Trọng. Như vậy chẳng phải là nhân sao? Chẳng phải
là nhân sao?[8]
Còn Mạnh Tử, sinh sau Quản Trọng ba trăm rưỡi năm, chê Quản Trọng