giặc được. Vì vậy bậc vua chúa chỉ xem trọng
biện của họ, chỉ tôn kẻ sĩ nào có tài năng làm hết công việc của họ. Ngày
nay bậc vua chúa xem trọng lời biện thuyết vô dụng, tôn những hành động
không có công dụng; như vậy mà muốn cho nước giàu mạnh thì không thể
được.
Học rộng mà hùng biện, sáng suốt (biện trí) thì như Khổng, Mặc, nhưng
Khổng, Mặc không cày bừa thì nhờ họ được gì đâu? Luyện đức hiếu, ít
ham muốn thì như Tăng Sâm, Sử Ngư, nhưng Tăng Sâm, Sử Ngư không ra
trận thì có lợi gì cho nước đâu? Người dân thường có cái lợi riêng, bậc vua
chúa có cái lợi chung. Không làm lụng mà đủ ăn, không làm quan mà hiển
danh, đó là lợi riêng. Chấm dứt văn học mà làm sáng pháp độ, ngăn chặn tư
lợi, nhất thiết tước lộc đều do có công mới được, đó là cái lợi chung. Ban
bố pháp luật để dẫn dắt mà lại còn quí văn học thì dân còn nghi ngờ khi
tuân theo pháp luật; thưởng công để khuyến khích dân mà lại còn trọng sự
sửa đức thì dân sẽ biếng nhác trong việc sản xuất. Quí văn học để cho dân
nghi pháp lệnh, trọng đức hạnh, khiến cho việc lập công không do một
đường (là làm ruộng đánh giặc) nữa, mà muốn cho nước giàu mạnh thì
không thể được.
*
Người đời (thượng) cổ gấp lo về đức hạnh, người đời trung cổ
nhau về trí, người đời nay tranh nhau về sức mạnh. Thời thượng cổ ít việc
mà sự thiết bị đơn giản, chất phác thô lậu mà không tính (tinh?) cho nên
mài vỏ trai lớn để giẫy cỏ, dùng xe bánh không có tay hoa
. Thời thượng
cổ người ít mà thân nhau, tài vật nhiều, nên người ta khinh cái lợi mà dễ
nhường nhau, do đó mới có việc vái nhau mà nhường thiên hạ
. Nhưng
thi hành chính sách vái nhường, đề cao lòng từ huệ và giảng đạo nhân hậu
đều là thứ chính trị chất phác
cả. Sống ở thời nhiều việc mà dùng
những khí cụ của thời ít việc, không phải là cách xử sự của người có trị
(trí?). Giữa cái đời tranh nhau gay gắt mà theo lối vái nhường, không phải
là phép trị nước của thánh nhân. Cho nên người có trí không ngồi cỗ xe