chúng tôi đã dịch trong Cổ văn Trung Quốc (Tao đàn 1966) nay sửa lại vài
chỗ.
Nguyên văn: khái (
概) là cái ống để gạt thóc, sau trỏ công việc gạt thóc,
do đó có nghĩa là làm cho vơi đi.
Y Doãn là một tể tướng giỏi đời Thương, có công đánh vua Kiệt, hồi trẻ
nghèo, muốn được tiến cử lên vua Thương, phải xin làm đầu bếp đem phép
gia vị trong thuật nấu ăn để giảng cho vua Thang hiểu về vương đạo. Đó
chỉ là truyền thuyết, chưa đáng tin.
Bách Lí Hề là một vị tể tướng giỏi nhà Tần. Trước làm đại phu nước Ngu,
ông bị bắt làm tù binh, sau trốn được, bị nước Sở bắt phải làm đầy tớ chăn
bò. Tần Mục công đem năm bộ da dê chuộc ông, giao cho việc nước. Vậy
ông vì hoàn cảnh mà phải chăn bò chứ không cố ý chăn trâu bò để cầu cạnh
vua Tần biết đến. Tác giả dẫn thí dụ đó hơi ép.
Nhiễu Triều là một đại phu nước Tần. Một vị công khanh nước Tấn tên
là Sĩ Hội trốn qua Tần, được Tần Mục Công trọng: nước Tấn thấy vậy sai
người lén qua Tần thuyết phục Sĩ Hội và đón Sĩ Hội về. Nhiễu Triều biết
trước việc đó, can vua Tần, vua Tần không nghe.
Chữ lục (
戮) (giết) ở đây, (vi lục ư Tần) theo Cổ kim văn tuyển, nên coi
là chữ nhục, có nghĩa là bị nhục không được vua Tần tin dùng.