賊也,人不貴則輿不售,人不死則棺不買,情非憎人也,利在人之死
也。
(Y thiện duẫn [3] nhân chi thương, hàm nhân chi huyết, phi cốt nhục chi
thân dã, lợi sở gia dã. Dư nhân thành dư, tắc dục nhân chi phú quí; tượng
nhân thành quan, tắc dục nhân chi yểu tử dã. Phi dư nhân nhân nhi tượng
nhân tặc dã; nhân bất quí tắc dư bất thụ, nhân bất tử tắc quan bất mãi. Tình
phi tăng nhân dã, lợi tại nhân chi tử dã – Bị nội)
Thời Tiên Tần, không có tác giả nào cực tả lòng vị lợi của con người bằng
Hàn trong những đoạn dẫn ở trên. Ông nhận rằng thời ông, con người xấu
xa hơn các thời trước, như vậy chỉ vì dân nghèo, người đông mà tài vật ít,
phải làm lụng cực nhọc, tranh giành nhau mới sống được.
Thiên Ngũ đố có một đoạn bất hủ đủ cho Hàn Phi lưu danh lại cho hậu thế.
Ông đã thấy dân số tăng gia theo cấp số nhân cả hai ngàn năm trước nhà
kinh tế học Anh, Malthus: thời cổ đàn ông không phải cày ruộng, trái cây
và hột cỏ đủ ăn rồi; đàn bà không phải dệt vải, da cầm thú đủ che thân rồi.
Họ không phải gắng sức mà đủ ăn đủ mặc, nhân dân ít mà vật dụng thừa,
cho nên không tranh giành nhau. Vì vậy khỏi phải thưởng hậu phạt nặng
mà dân tự nhiên khỏi loạn. Ngày nay một người có năm người con, không
phải là nhiều, mỗi người con lại có năm người con nữa, thành thử ông chưa
chết mà đã có hai mươi lăm đứa cháu, vì vậy nhân dân đông mà tài sức ít,
phải lao lực nhiều mà thức ăn đồ mặc lại ít, cho nên họ phải tranh giành
nhau, dù có thưởng hậu gấp hai, phạt nặng gấp mấy thì cũng không tránh
khỏi loạn.
古者丈夫不耕,草木之實足食也;婦人不織,禽獸之皮足衣也。不事
力而養足,人民少而財有餘,故民不爭。是以厚賞不行,重罰不用而
民自治。今人有五子不為多,子又有五子,大父未死而有二十五孫,
是以人民眾而貨財寡,事力勞而供養薄,故民爭,雖倍賞累罰而不免
於亂。
(Cổ giả trượng phu bất canh, thảo mộc chi thực túc thực dã; phụ nữ bất
chức, cầm thú chi bi túc y dã. Bất sự lực nhi dưỡng túc, nhân dân thiểu nhi
tài hữu dư, cố dân bất tranh. Thị dĩ hậu thương bất hành, trọng phạt bất
dụng nhi dân tự trị. Kim nhân hữu ngũ tử bất vị đa, tử hựu hữu ngũ tử, đại