chúng tôi biết cậu làm gì cho chúng.”
“Vâng, là việc gì thế?”
“Anh là một sát thủ, Paul ạ.” Manielli nhanh nhẹn nói, như thể cậu ta
đang chờ đợi được nói câu này.
Gordon nói, “Tháng Ba năm ngoái Jimmy đã thấy cậu…” Ông ta cau
mày. “Mấy kẻ như cậu nói sao nhỉ? Các cậu không dùng từ ‘giết’.”
Paul suy nghĩ: Vài người trong chúng tôi nói ’khử’ Bản thân Paul thích
dùng từ ‘hóa kiếp.’ Đó là từ Trung sĩ Alvin York hay dùng để mô tả việc
giết binh lính kẻ thù trong chiến tranh. Nó khiến Paul cảm thấy như say khi
dùng câu nói một anh hùng chiến tranh đã nói. Nhưng dĩ nhiên, Paul
Schumann không chia sẻ điều đó với bất kỳ ai lúc này.
Gordon nói tiếp, “Jimmy nói trông thấy cậu giết Arch Dimici vào ngày
mười ba tháng Ba, trong một nhà kho trên đường Hudson.”
Paul đã đi loanh quanh chỗ đó suốt bốn tiếng đồng hồ trước khi Dimici
ló mặt ra. Gã đã tin rằng tên này đi một mình. Jimmy chắc hẳn đang say
giấc nồng phía sau một trong những chiếc thùng thưa khi Paul đến.
“Bây giờ, từ những gì họ nói với tôi, Jimmy không phải là nhân chứng
đáng tin cậy nhất. Nhưng chúng tôi có một số bằng chứng chắc chắn. Mấy
thằng nhóc hải quan đến gặp cậu ta để bán cần sa, đổi lại cậu ta đã biết hết
kế hoạch của cậu. Có vẻ cậu ta đã nhặt được một vỏ đạn tại hiện trường và
đang giữ lại làm đảm bảo. Không có đấu vân tay trên đó - cậu quá thông
minh. Nhưng người của Hoover đã xét nghiệm trên khẩu Colt của cậu.
Những vết xước từ dấu móc vỏ đạn là trùng khớp.”
Hoover? Cả FBI cũng nhúng tay vào sao? Và họ đã xét nghiệm khẩu
súng. Khẩu súng gã vừa vứt ra khỏi cửa sổ căn hộ của Malone một tiếng
trước.
Hai hàm răng Paul nghiến chặt vào nhau. Gã tức giận với chính mình. Gã
đã kiếm cái vỏ đạn chết tiệt đó nửa tiếng đồng hồ tại hiện trường vụ
Dimici. Nhưng cuối cùng, gã kết luận rằng nó lăn qua những khe nứt trên
sàn ra đường Hudson.
“Nên chúng tôi đã hỏi han, nghe nói cậu đang được trả 500 đô để…”
Gordon ngập ngừng.