thôi. Tôi không nhìn được mặt anh ta,” tay tài xế giải thích. “Tôi còn phải
nhìn đường.”
Mù lòa, dĩ nhiên rồi, Kohl cay đắng nghĩ.
Họ quay về trụ sở nhận những thông báo in ra về nạn nhân ngõ Dresden.
Xem xong họ chạy bổ đến chỗ này, công trình tưởng niệm vinh danh cuộc
đảo chính thất bại năm 1923 (chỉ có những kẻ theo Chủ nghĩa Phát xít mới
biến một thất bại nhục nhã đến thế thành một vinh quang tuyệt đối). Trong
khi Lützow Plaza quá rộng không thể tìm ra mục tiêu hiệu quả, quảng
trường này nhỏ hơn nhiều, có thể dễ dàng đi hỏi han.
Kohl lúc này ngắm mọi người ở đây: những người ăn xin, bán hàng, gái
điếm, chủ cửa hàng, người thất nghiệp và phụ nữ trong các quán cà phê
nhỏ. Ông hít sâu bầu không khí chứa đầy mùi hăng và nồng của rác rưởi,
rồi hỏi. “Cậu có cảm nhận được con mồi của chúng ta gần đây không,
Janssen?”
“Tôi…” Tay trợ lý dường như thấy khó chịu với nhận xét này.
“Đó là một cảm giác,” Kohl nói, quét mắt qua con phố khi ông đứng
dưới cái bóng của bức tượng đồng Hitler đầy thách thức, can đảm. “Bản
thân tôi cũng không mê tín. Còn cậu?”
“Không hẳn, thưa sếp. Tôi không phải là người theo tôn giáo, nếu ý sếp
là thế.”
“Tôi cũng có theo tôn giáo nào đâu. Heidi sẽ không ủng hộ chuyện đó.
Nhưng điều tôi đang nói đó là ảo ảnh của tinh thần dựa trên những cảm
nhận và trải nghiệm. Và tôi bây giờ đang có cảm xúc đó. Hắn ở gần đây.”
“Vâng, thưa sếp,” tay thanh ưa học việc nói. “Tại sao sếp nghĩ thế?”
Một câu hỏi thích hợp, Kohl nghĩ. Ông tin rằng những thanh tra trẻ phải
luôn luôn đặt câu hỏi với người dạy mình. Ông giải thích, bởi vì vùng này
là một phần của phía Bắc Berlin. Ở đây, cậu có thể tìm thấy số lượng lớn
những Người Cộng sản, người theo Chủ nghĩa Xã hội gần gũi, thất nghiệp,
nghèo khổ và bị thương trong Thế Chiến thứ I và cả các băng nhóm Cướp
biển Edelweiss chống Đảng, những tên trộm vặt và là nơi những người ủng
hộ lao động ẩn náu sau khi các công đoàn sống ngoài vòng pháp luật. Đến
sinh sống ở đây là những người Đức tiếc nhớ vô cùng những thuở ban đầu: