phá lên cười lớn, rồi nụ cười tắt dần. “Nhưng chuyện này không đùa đâu.
Nhờ có hắn, những thằng tù đã vượt ngục hết rồi.”
Họ tiếp tục im lặng một lúc. Rồi Webber dừng lại, tự hào chỉ tay vào một
tòa nhà đổ nát.
“Chúng ta đến nơi rồi, bạn tôi. Nhìn cái tên đi.”
Tấm biển đã phai màu viết bằng tiếng Anh, Câu lạc bộ Texas.
“Nơi đây đã từng là sào huyệt của tôi. Của bang hội Những Tay Cao Bồi
của tôi, mà tôi nói lúc nãy. Hồi đó, nó đẹp lắm, đẹp hơn nhiều. Cẩn thận
bước chân đấy, cậu John Dillinger. Đôi khi có những người đàn ông ngủ
lang trên lối vào. Ôi chà, tôi có nên đi than vãn chuyện thời thế đổi thay
này không đây?”
Webber đã giao xong cái túi đựng hàng bí ẩn cho người phục vụ quầy
rượu, rồi nhận một phong bì.
Căn phòng đầy khói thuốc, mùi hôi của rác rưởi và tỏi. Sàn nhà vứt
vương vãi thuốc lá và đầu mẩu xì gà đã hút đến chỉ còn lại những mẩu bé
xíu.
“Ở đây chi có một loại bia thôi,” Webber cảnh báo. “Họ không thể pha
trộn các bom bia. Chúng đóng thùng từ nhà máy bia rồi. Còn gì khác không
nhỉ? À, họ pha rượu snap với ethyl và tính chất thực phẩm. Rượu vang…
mà thôi thậm chí đừng hỏi. Còn về đồ ăn…” Anh ta hất đầu về phía các bộ
dao, dĩa và thìa gắn vào tường bên cạnh từng bàn. Một thanh niên trong bộ
quần áo nhem nhuốc đang bước quanh phòng, tay rửa mấy chiếc dao dĩa
hay thìa dùng rồi trong cái xô nhờn mỡ. “Tốt hơn không nên về khi bụng
còn đói,” Webber nói. “Hoặc cậu không hề muốn ra về.”
Họ gọi món rồi tìm chỗ ngồi. Tay phục vụ ở quầy rượu suốt từ nãy ném
sang Paul cái nhìn chằm chằm thiểu não, mang hai cốc bia đến bàn. Cả hai
cùng lau miệng cốc trước khi uống. Webber vô tình liếc nhìn xuống rồi
nhíu mày. Anh gác chân này lên chân kia rồi xem xét quần dài. Dưới đáy
gấu quần đã bục chỉ, những sợi vải rũ xuống.