Avery nhún vai rồi nhìn trừng trừng cửa máy bay, khi mấy thanh niên
khác xuất hiện. Có cả thảy năm người. Tất cả đều tầm hai mươi tuổi, thậm
chí là vừa qua tuổi thiếu niên, thể hình khá ổn, nhưng đều kiệt sức với đôi
mắt mệt mỏi, râu ria lởm chởm, quần áo rách tơi tả, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
“Nhầm máy bay rồi,” Manielli thì thầm. “Chúa tôi, thế…”
“Đúng máy bay này mà,” cậu bạn sĩ quan ngắt lời, nhưng cũng bối rối
không kém.
“Trung úy Avery phải không?” một giọng nói mang trọng âm nặng cất
lên từ ngưỡng cửa. Một người đàn ông lớn hơn mấy thanh niên kia vài tuổi.
Thêm một người khác trẻ hơn đi cùng anh.
“Vâng, là tôi. Anh là ai?”
“Tôi nói tiếng Anh tốt hơn những người kia, tôi sẽ trả lời. Tôi là Kurt
Fischer và đây là em trai tôi, Hans.” Phá lên cười trước vẻ mặt của hai cậu
trung úy, anh nói tiếp, “Phải, phải, người các anh đang đợi không phải
chúng tôi. Nhưng Paul Schumann đã cứu chúng tôi.”
Anh kể câu chuyện Schumann đã cứu mười hai thanh niên khỏi sự đầu
độc bằng hơi ngạt của Phát xít. Tay người Mỹ đã cố gắng tập hợp đám
thanh niên lại khi họ chạy trốn vào rừng, đề nghị cho họ một cơ hội trốn
khỏi đất nước. Vài người muốn ở lại và tận dụng cơ hội của họ, chỉ có bảy
người đồng ý bỏ đi gồm cả anh em nhà Fischer. Schumann đã mang họ theo
trên thùng xe tải Dịch vụ Lao động, nơi họ nắm chặt mấy cái xẻng, túi vải
bao bố và hóa trang thành công nhân. Gã đã đưa họ qua được chốt kiểm
soát an toàn tới Berlin nơi họ lẩn trốn qua đêm.
“Vào lúc bình minh, anh ấy đưa chúng tôi đến một sân bay nhỏ ngoài
thành phố, nơi chúng tôi lên chiếc máy bay này. Và giờ chúng tôi ở đây.”
Avery vừa định hỏi dồn dập anh ta thêm nhiều câu nữa, thi đúng lúc này
một người phụ nữ xuất hiện trên ngưỡng cửa máy bay. Cô khoảng chừng
bốn mươi tuổi, khá mảnh mai và cũng mệt mỏi như những người khác. Một
tay cô xách va li nhỏ, tay kia cầm theo một cuốn sách đã xé rách bìa.
“Chào cô,” Avery nói, ném về phía những người kia lẫn người đồng đội
cái nhìn dò hỏi.