tay sĩ quan, những khách hàng hay xục xạo đó đều gây cho chị ta một nỗi
lo âu gần như theo bản năng tự nhiên.
Musyne thì ngày càng luôn luôn bị đám khách người Nam Mỹ chiếm
đoạt. Nhưng cũng qua đó mà tôi hiểu được ngọn nguồn những thủ đoạn và
những chuyện nội bộ của mấy ngài này, những khi cố chờ cho được em yêu
ở văn phòng các vị. Hơn nữa mấy gã hầu phòng của các vị lại còn nghĩ
rằng tôi là một thằng ma cô. Và rồi, cuối cùng, tất cả bọn họ đều coi tôi là
ma cô, kể cả Musyne nữa, cùng lúc với việc tôi cũng nghĩ tất cả những
khách quen của cái cửa hiệu mụ Herote đều thế cả. Tôi chẳng biết làm thế
nào. Vì sớm hay muộn thì người ta cũng xếp anh vào hạng người đó thôi.
Tôi được các nhà chức trách quân sự cho nghỉ thêm hai tháng dưỡng
bệnh và người ta còn nói cả đến việc tôi sẽ được phục viên nữa. Musyne
bàn với tôi và hai đứa quyết định đưa nhau ra ở tại Billancourt
. Thật ra
thì đây cũng là một cái mẹo của em, lợi dụng việc chúng tôi ở xa nội thành
để em có cớ mà về nhà thưa hơn. Luôn luôn em tìm được cớ này cớ khác
để ở lại Paris.
Những đêm Billancourt thật êm đềm, đôi lúc xáo động bởi những cuộc
báo động trò trẻ về máy bay và khí cầu của địch, nhờ đó mà dân thành thị
tìm được cách để chứng minh cho những cái rùng mình của mình. Trong
lúc chờ đợi người tình, tôi đi dạo khi bóng đêm đã buông xuống, đến tận
cầu Grenelle
, bóng tối từ dưới sông hắt lên tận thành xe điện ngầm, với
những chùm đèn giăng giăng giữa đêm đen, với khối sắt cũ to tướng ầm ầm
như sấm động đang len lỏi vào giữa những dẫy nhà cao tầng ở bến Passy.
Trong các thành phố thường có những góc phố xấu xí một cách ngớ
ngẩn như vậy, khiến cho ta có lọt vào đó thì luôn luôn cứ thấy mình đơn
độc.
Rồi thì Musyne chỉ về cái thứ mái ấm đó của chúng tôi mỗi tuần có
một lần. Em càng thường xuyên đi đệm đàn cho các nữ ca sĩ ở các nhà
hàng của đám Ác-giăng-tin. Em có thế chơi đàn và kiếm sống được ở các
rạp chiếu bóng, là nơi mà tôi có lẽ dễ tìm đến đón em, nhưng đám Ác-