với tôi nên tôi mới nghĩ đến nó đầu tiên. Tôi không tài nào lý giải được.
Đúng là ác mộng!”
Gurney ngồi im lặng chờ cơn hoảng loạn của Mellery lắng xuống.
“Có nói đến chuyện rượu chè trong thư nghĩa là người đó có biết tôi vào
cái thời bê tha ấy. Nếu hắn có ác cảm gì với tôi – mà nghe có vẻ là vậy thật –
thì hắn đã nung nấu nó một thời gian dài rồi. Có thể là một người đã mất dấu
tôi, không biết tôi ở đâu rồi thấy một trong hai cuốn sách của tôi, thấy ảnh
tôi, đọc thông tin gì đó về tôi, rồi quyết định… quyết định làm gì cơ? Tôi
cũng chẳng biết những bức thư này nói gì nữa.”
Gurney vẫn không nói gì.
“Anh có biết được cảm giác đã trải một trăm đêm, thậm chí là hai trăm
đêm trong đời mà không nhớ ra được đêm nào không?” Mellery lắc đầu kinh
ngạc trước sự bạt mạng của chính mình. “Thứ duy nhất tôi biết chắc về
những đêm đó là tôi đã say xỉn và điên dại đến nỗi chuyện gì cũng làm.
Dính tới rượu chè là như vậy đó – khi anh uống nhiều như tôi, rượu sẽ tước
lấy tất cả nỗi sợ về hậu quả. Nhận thức của anh méo mó, khả năng tự chủ
biến mất, trí nhớ tắt lịm, và anh sống bằng sự bốc đồng – bằng bản năng
không bị ràng buộc.” Y bỗng im bặt, lắc đầu.
“Anh nghĩ có thể mình đã làm gì trong những lúc say xỉn đến mất trí nhớ
như vậy?”
Mellery nhìn anh chằm chằm. “Thứ gì cũng làm! Chúa ơi, vấn đề là ở chỗ
đó – thứ gì cũng làm cả.”
Gurney nghĩ, trông y như một người vừa phát hiện ra thiên đường nhiệt
đới trong mơ mà mình đã bỏ từng cắc bạc ra đầu tư đang tràn ngập lũ bọ cạp
phá hoại.
“Anh muốn tôi làm gì cho anh nào?”
“Tôi không biết nữa. Có lẽ tôi hy vọng được nghe một lời suy luận kiểu
Sherlock Holmes, hy vọng thấy bí ẩn được giải đáp, hy vọng kẻ viết thư
được nhận dạng và mất khả năng gây hại.”