Dermott ra chiều đang cố gắng bình tĩnh. “Đây,” y nói. “Mang chìa khóa
này đưa cho anh ta. Có hai khóa lận. Lộn xộn nực cười như vậy đấy…”
Gurney nhận chiếc chìa khóa. “Anh có sao không?”
Dermott vẫy tay vẻ ghê tởm. “Nếu họ đến với tôi đúng mực ngay từ đầu
thì…” Giọng y lịm dần.
Gurney ném cho người đàn ông trông có vẻ khốn khổ ấy cái nhìn suy xét
lần cuối, đoạn đi xuống lầu.
Như trong hầu hết các căn nhà ngoại ô, cầu thang dẫn đến tầng hầm chạy
thấp xuống đằng sau và bên dưới cầu thang đến tầng hai. Có một cánh cửa
dẫn tới cầu thang này mà Nardo đã để mở. Gurney thấy một ngọn đèn đang
sáng bên dưới.
“Trung úy?”
“Gì hả?”
Giọng nói dường như phát ra đâu đó cách chân cầu thang gỗ xù xì một
đoạn, nên Gurney cầm chìa khóa đi xuống. Cái mùi mốc meo trộn lẫn của bê
tông, ống dẫn kim loại, gỗ và bụi gợi lên hồi ức sinh động về tầng hầm khu
chung cư thời thơ ấu của anh – phòng trữ đồ hai ổ khóa nơi người thuê trữ
xe đạp chưa dùng đến, xe đẩy em bé, những cái hộp chứa đầy rác rưởi; ánh
sáng yếu ớt sản sinh từ những bóng đèn tròn dính đầy mạng nhện; những
chiếc bóng không khỏi cho anh cảm giác ớn lạnh rợn tóc gáy.
Nardo đang đứng chỗ một cánh cửa thép màu xám ở đầu đối diện một
phòng bê tông xây dở dang để lộ nhiều rầm, nhiều bức tường ố vàng do ẩm
thấp, một máy nước nóng, hai bể chứa dầu, một lò sưởi, hai thiết bị báo
cháy, hai bình chữa cháy và một hệ thống chữa cháy tự động.
“Chìa khóa chỉ ăn vào ổ khóa ngoài thôi,” anh ta nói. “Còn một ổ khóa
chìm nữa. Mê ba cái thứ bảo mật dự phòng như thế này làm gì không biết?
Còn cái chìa khốn kiếp kia ở đâu đây?”
Gurney đưa nó cho anh ta. “Hắn nói là quên. Đổ thừa tại anh.”
Nardo nhận chìa khóa kèm một tiếng càu nhàu ghê tởm rồi nhét thẳng
chìa vào ổ khóa. “Bà mẹ thằng cha khốn kiếp,” anh ta vừa nói vừa đẩy cửa