đổi ra tiền mà gửi trả lại người gửi. Nhưng tại sao y lại phô tô séc ra trước
khi trả lại? Và, đáng lo ngại hơn, vì lý do khi gió gì mà y lại lồng séc vào
khung? Gurney cầm từng tấm khung lên, như thể nếu nhìn gần hơn sẽ có câu
trả lời.
Rồi, đột nhiên, trong khi đang săm soi chữ ký trên tấm séc thứ ba – R.
Kartch – cảm giác bứt rứt mà anh vẫn luôn có mỗi khi thấy cái tên đó lại
ngoi dậy. Có điều lần này không chỉ có cảm giác đó đến với anh, mà cái lý
do đằng sau nó cũng đến.
“Khốn kiếp!” anh làu bàu tự trách trước đây đã không thấy sự sai lệch giờ
đây đã hiển lộ rõ.
Cùng lúc đó, một tiếng động nhỏ đột nhiên vang lên từ phía Nardo.
Gurney nhìn anh ta, rồi theo cái nhìn trân trân hốt hoảng của anh ta hướng
về góc đối diện của căn phòng rộng hun hút. Ngay đó – mập mờ trong bóng
đêm, ngoài tầm với của vầng sáng yếu ớt từ chiếc đèn bàn rọi lên những tờ
séc được lồng khung, khuất một phần sau hai cánh tay một chiếc ghế bành
theo phong cách thời Nữ hoàng Anne và ngụy trang trong chiếc đầm ngủ có
sắc hồng nâu mờ như màu nệm bọc ghế, một người đàn bà tiều tụy đang
ngồi, đầu cúi gằm xuống trước ngực.
Nardo gỡ đèn pin trên thắt lưng ra rồi chiếu tia sáng vào mặt bà ta.
Gurney đoán tuổi bà ta đâu đó trong khoảng từ 50 tới 70. Nước da tái nhạt
như xác chết. Mái tóc vàng, cột lên thành nhiều lọn xoăn tít, nhất định là tóc
giả. Chớp mắt, bà ta ngẩng đầu lên chậm chạp đến nỗi hầu như không thấy
chuyển động của đầu, xoay đầu về phía ánh sáng với một dáng vẻ uyển
chuyển lạ lẫm như hoa hướng dương hướng về phía mặt trời.
Nardo nhìn Gurney, rồi lại nhìn người đàn bà trên ghế.
“Ta phải đi dải,” bà ta nói. Giọng bà ta cao, khàn, độc đoán. Cái nghiêng
cằm ngạo mạn hướng lên trên để lộ một vết sẹo xấu xí trên cổ.
“Cái bà quái nào đây?” Nardo thì thầm, như thể Gurney phải biết câu trả
lời.
Thật ra thì Gurney chắc chắn mình biết chính xác đó là ai.