vào những vũng nước và không chịu tránh đường cho các ô tô đang bóp còi
inh ỏi, như thể ông không hề nghe thấy. Để vượt ông, mấy chiếc xe ô tô đó
phải tránh sang vệ đường.
Quả là một hình ảnh lạ lùng khi ông đứng sừng sững trước chấn song với
vẻ hăm dọa, thân hình to lớn, hai tay siết lại thành nắm đấm trong túi áo
choàng sũng nước mặc dù lúc đó mưa đã ngớt. Nhưng chẳng có ai ở đó để
mà trông thấy ông, chuông mười hai giờ vừa điểm và công trường đã đóng
cửa. Trên chấn song, có một tấm biển dán thông báo của Ban lễ tang, liệt kê
cho gia đình và thân nhân các đồ vật tìm thấy trên những thi thể chưa được
nhận dạng, và người ta có thể đến tòa thị chính để xem: bức ảnh một phụ
nữ trẻ, một tẩu thuốc, một cuốn lưu ngân phiếu, những chữ viết tắt trên
quần áo lót, một túi đựng thuốc lá bằng da, một cái bật lửa, một cặp kính
tròn, một bức thư bắt đầu bằng “em yêu” nhưng không ký tên, một bản
kiểm kê sơ sài và thảm hại… Merlin choáng váng trước tất cả những di vật
khiêm tốn đó. Toàn những người lính nghèo khổ! Chuyện này không đáng
tin chút nào.
Ông cúi xuống nhìn dây xích cổng, giơ chân đạp một cú rất mạnh đủ giết
chết một con bò tót lên ổ khóa nhỏ, rồi đi vào công trường, lại đạp một cú
nữa tung cánh cửa lán quản trị. Dưới một tấm bạt phồng lên trước gió,
khoảng mười hai người Ả Rập đang ăn trưa tại chỗ. Từ xa, họ thấy Merlin
phá cổng rồi cửa văn phòng nhưng họ chả thèm đứng dậy can thiệp, hình
dáng bề ngoài của con người này, sự tự tin của ông ta chẳng nói lên điều gì
đáng giá; họ tiếp tục nhai bánh mì.
Cái mà ở đây người ta gọi là “vuông đất Pontaville” là một cánh đồng
chẳng có gì vuông vắn cả, nó nằm ở bìa rừng nơi người ta ước tính có
khoảng sáu trăm lính được chôn.
Merlin lục tủ tìm những quyển sổ trong đó mỗi hoạt động phải được ghi
lại. Vừa tra cứu những bản báo cáo thường nhật, ông vừa đảo mắt liếc
nhanh về phía cửa sổ. Việc đào mộ được bắt đầu từ hai tháng trước; những
gì ông thấy là một cánh đồng đầy hố và gò đất, bạt, ván gỗ, xe cút kít,
những nhà chái tạm bợ làm kho chứa thiết bị.