tôi nghĩ kể chuyện tôi đã chống chọi với Chúa hằng ngày và nghi ngờ sự
tồn tại của Người sẽ không giúp tôi thoát khỏi cái mác tạo-vật-đen-tối-của-
bóng-đêm.
“Được rồi,” cuối cùng tôi nói. “Cho tôi biết nếu cô thay đổi ý kiến.”
Tôi quay về giường và ngủ ngay lập tức, dù vẫn lo Sydney đứng ở
hành lang suốt đêm. Thế nhưng, sáng hôm sau, khi tỉnh giấc, tôi thấy cô
cuộn tròn trên giường, ngủ say. Rõ ràng sự mệt mỏi đã khiến cô phải nghỉ
ngơi dù có sợ hãi tôi. Tôi đang đói và cho rằng Sydney sẽ ngủ được thêm
nếu tôi không ở gần.
Nhà hàng nằm ở khoang bên cạnh và trang hoàng như trong phim cổ.
Những tấm trải bàn màu mận chín lịch thiệp, đồ gỗ màu đồng tối, cùng
nhiều món thủy tinh nhuộm màu sáng, khiến nơi này có không khí cổ xưa.
Trông giống một nhà hàng tôi gặp ở Saint Petersburg hơn là một nhà ăn
trên tàu. Tôi gọi một thứ nhang nhác bánh mì trứng của Pháp nhưng đính
pho mát bên trên. Bánh ăn kèm với xúc xích, tới giờ tôi thấy ở đâu món này
cũng giống nhau.
Tôi ăn gần xong thì Sydney đi sang. Lần đầu gặp Sydney, tôi tưởng
chiếc quần váy và áo khoác là dành cho Nightingale. Giờ tôi nhận ra, đó là
phong cách thường nhật của cô. Cô gây cho tôi ấn tượng về những người
không có quần jeans hay áo phông. Lúc đứng ở hành lang đêm qua, trông
cô rối bời, nhưng giờ, cô mặc một chiếc quần đen phẳng phiu và chiếc áo
len xanh sẫm. Tôi đang mặc quần jeans và áo ấm màu xám, cảm thấy mình
luộm thuộm bên cạnh cô. Mái tóc cô chải chuốt, chỉnh sửa nhưng vẫn hơi
rối, tôi nghĩ sẽ không bao giờ hết rối được dù cô có cố đến đâu. Ít ra hôm
nay tôi cũng có mái tóc đuôi ngựa mượt mà.
Người phục vụ đi tới. Sydney ngồi vào ghế đối diện tôi và dùng tiếng
Nga gọi món trứng ốp lết.
“Sao cô làm được thế?”
“Gì cơ, tiếng Nga à?” Cô nhún vai. “Tôi phải học từ nhỏ tới lớn. Cả
mấy thứ tiếng khác nữa.”