tin rằng nếu họ làm việc hết mình thì chỉ đem lại lợi nhuận cho
ông chủ chứ không phải cho riêng họ. Thật đáng tiếc là suy nghĩ này
vẫn đang tồn tại. Nhưng nó thực sự đang tồn tại và có thể có vài lời
bào chữa. Nếu ông chủ hối thúc công nhân làm việc hết sức và
người công nhân dần dần hiểu rằng những cống hiến của họ
không đem lại cho họ bất kỳ ích lợi gì, thì đương nhiên, họ sẽ trở lại
với thói quen lười biếng. Nhưng nếu họ nhận thấy thành quả từ
công việc vất vả mà họ làm trong phong bì tiền lương của mình
chứng tỏ rằng càng làm việc chăm chỉ càng nhận được lương cao thì
khi đó, họ bắt đầu hiểu được rằng họ là một phần của công việc
và rằng thành công phụ thuộc vào họ và thành công của họ cũng phụ
thuộc vào công việc.
Những câu hỏi “Ông chủ nên trả cái gì?”, “Người công nhân nên
được nhận cái gì?” chỉ là những câu hỏi lặt vặt. Câu hỏi cơ bản ở đây là
“Công việc kinh doanh đứng vững nhờ những yếu tố nào?". Chắc
chắn không có công ty nào có thể đứng vững nếu nguồn thu
không đủ bù đắp chi phí. Khi anh bơm nước ra khỏi giếng nhanh
hơn lượng nước chảy vào, giếng sẽ cạn. Và khi giếng cạn sạch thì
những người sống nhờ vào nước giếng sẽ khát. Và dù cho họ tưởng
tượng rằng họ sẽ hút cạn một cái giếng rồi sau đó chuyển sang cái
khác, thì đó cũng chỉ là vấn đề thời gian vì tất cả số giếng rồi
cũng sẽ cạn. Giờ đây, đòi hỏi của người lao động được trả thù lao một
cách công bằng hơn đang tăng, nhưng cũng cần lưu ý rằng những
khoản thù lao đó đều có giới hạn. Ngay bản thân công việc kinh
doanh cũng thiết lập những giới hạn này. Anh có thể không chấp
nhận bỏ 150.000 đô la cho việc kinh doanh mà chỉ mang lại cho anh
100.000 đô la. Như thế, chính việc kinh doanh cũng đã giới hạn
tiền lương, nhưng liệu có thứ gì giới hạn việc kinh doanh hay không?
Bản thân kinh doanh cũng đã tự hạn chế mình bởi những tiền lệ
xấu mà tôi trình bày sau đây.