Qua nhiều năm, tôi đã hiểu được nhiều điều về tiền lương.
Tôi luôn tin rằng, nếu đặt mọi xem xét khác sang một bên, doanh
số bán hàng của chúng tôi tuỳ thuộc vào mức lương chúng tôi trả.
Nếu trả lương cao, tiền sẽ được tiêu nhiều và sẽ làm cho các chủ
cửa hàng, các nhà phân phối, nhà sản xuất và những người công
nhân ở những khâu khác trở nên phát đạt hơn và sự thịnh vượng của
họ được thể hiện trong doanh số của chúng tôi. Lương cao mang lại
sự thịnh vượng của cả quốc gia, miễn là công việc sản xuất hiệu quả
hơn sẽ được trả lương cao hơn. Việc trả lương cao mà năng suất lại
giảm chính là điểm bắt đầu cho sự trì trệ trong công việc.
Chúng tôi phải mất một thời gian dài để tìm hiểu về tiền lương
và mãi tới khi chúng tôi tiến hành sản xuất loại xe Model T thì mới
có thể xác định mức tiền lương nên như thế nào. Trước đó, chúng
tôi đã từng có kế hoạch chia lãi cho công nhân. Vài năm trước, cứ
đến cuối mỗi năm, chúng tôi đều chia tỉ lệ phần trăm thu nhập
cho công nhân. Ví dụ năm 1909, chúng tôi đã trả 80.000 đô la cho
công nhân theo số năm phục vụ. Công nhân làm việc được một năm
nhận 5% số lương cả năm của anh ta, hai năm là 7,5%, và ba năm là
10%. Nhược điểm của kế hoạch này là nó không liên quan trực tiếp
với công việc. Người lao động sẽ không có thù lao cho đến khi anh ta
hoàn thành công việc nên khi đó nó chỉ mang tính chất là một
phần thưởng. Và thật không hay khi nhận tiền lương như thể đó là
một món quà từ thiện.
Và đồng thời tiền lương khi đó cũng không được điều chỉnh
một cách khoa học theo công việc. Người làm công việc “loại A” nhận
một mức lương, còn “loại B” nhận mức cao hơn trong khi thực tế
công việc “loại A” có thể cần công sức và kỹ năng nhiều hơn công
việc “loại B”. Sẽ có rất nhiều bất công với mức lương trừ khi cả ông
chủ và công nhân đều hiểu rằng cần xác định mức lương theo một
số tiêu chí nào đó hơn là do phỏng đoán. Vì thế, bắt đầu từ năm