hàng bắt đầu phục vụ mọi người nhiều hơn bây giờ, và thay vì
được coi như một ngành kinh doanh tốn kém nhất, thu lợi nhuận
cao nhất từ tiền lãi cổ phần, các ngân hàng sẽ bớt tốn kém hơn
và lợi ích của các hoạt động ngân hàng sẽ thuộc về những doanh
nghiệp mà họ phục vụ.
Hai thực tế của trật tự trước đây là rất cơ bản. Đầu tiên, trong
phạm vi một quốc gia, xu hướng quản lý tài chính thường nghiêng
theo các tổ chức ngân hàng tập trung lớn nhất cả nước - có thể là
ngân hàng Nhà nước hoặc một nhóm liên minh thân cận của các nhà
tư bản tư nhân. Ở mỗi quốc gia đều có cơ chế quản lý tín dụng rõ
ràng bởi các nhóm lợi ích cá nhân hay bán công. Thứ hai, trên toàn
thế giới, xu hướng tập trung hoá tương tự cũng đang phát triển. Một
khoản tín dụng của Mỹ phải được đặt dưới sự kiểm soát của các thế
lực ở New York, cũng như trước chiến tranh thế giới, tín dụng đựơc
quản lý ở London - hệ thống đồng bảng của Anh được coi là chuẩn
ngoại hối trong thương mại quốc tế.
Hai phương pháp cải tổ đặt ra trước mắt chúng ta, một từ dưới
lên và một từ trên xuống. Cách sau có vẻ hệ thống hơn, cách đầu
hiện đang được thử nghiệm ở Nga. Nếu việc cải tổ tiến hành từ trên
xuống dưới thì cần phải có một tư tưởng mang tính xã hội, một
lòng vị tha cao cả của sự chân thành và tinh thần nhiệt huyết,
những điều hoàn toàn trái ngược với sự khôn khéo một cách ích kỷ.
Sự thịnh vượng của thế giới không bao hàm và cũng
không tương đương với lượng tiền trên thế giới. Tự bản thân
vàng không phải là một hàng hoá có giá trị. Nó cũng giống như
những chiếc phiếu gửi mũ không có giá trị như những chiếc mũ.
Tuy nhiên, vàng lại rất hữu dụng và được coi như biểu tượng của sự
giàu có khi nó cho phép những người sở hữu hay quản lý nó quyền
kiểm soát và chi phối những khoản tín dụng mà những người thực sự
tạo nên sự thịnh vượng cần đến. Kinh doanh tiền - một loại hàng