moi được tiền lương của nghiệp đoàn. Một số người bọn họ rất
giàu. Một số thì lại ham mê việc gây được ảnh hưởng lên các tổ chức
tài chính lớn của chúng ta. Những người khác lại rất phấn khích với
cái gọi là chủ nghĩa xã hội mà họ thực hiện gần giống với chủ nghĩa
bônsêvíc và chủ nghĩa vô chính phủ – lương của nghiệp đoàn đã giải
phóng họ khỏi nhu cầu làm việc để họ có thể cống hiến toàn bộ
sức lực vào việc tuyên truyền lật đổ. Tất cả bọn họ đều có uy tín và
quyền lực nhất định mà lẽ ra trong cạnh tranh thông thường họ
không thể có được.
Nếu công chức của nghiệp đoàn đều giỏi giang, trung thực, tử
tế, thẳng thắn và thông thái như phần lớn những người lập nên
nghiệp đoàn thì cục diện hoạt động trong những năm gần đây hẳn
đã khác. Nhưng phần lớn những công chức này – vẫn có những
ngoại lệ đáng chú ý - đã không hề để tâm đến việc kết hợp công
việc của mình với những phẩm chất tốt đẹp tự nhiên của người lao
động; họ chỉ để tâm đến việc lợi dụng điểm yếu của người lao động,
mà chủ yếu là điểm yếu của những người mới gia nhập nghiệp đoàn
vốn chưa biết gì về chủ nghĩa thân Mỹ, và cũng sẽ không bao giờ
biết được nếu họ được những người đứng đầu nghiệp đoàn địa
phương kèm cặp.
Trừ một số ít những người đã được chủng ngừa bằng học
thuyết sai lầm về “chiến tranh giai cấp” và những người đã
chấp nhận triết lý rằng tiến bộ có thể đạt được nhờ bao gồm
kích động thêm các mối bất hoà trong công việc (như thế này:
“Nếu anh nhận được 12 đô la một ngày, đừng dừng ở đó. Hãy đấu
tranh để có được 14 đô la. Nếu anh được làm 8 tiếng một ngày,
đừng có ngốc nghếch mà cảm thấy thoả mãn; hãy đòi 6 tiếng.
Hãy bắt tay vào việc đi! Chúng ta luôn phải làm một cái gì đó để giải
quyết tình trạng bất công này!”), người lao động đều có cách suy
nghĩ đơn giản, theo một số nguyên tắc đã được quan sát và chấp