bè đảng và phe phái, sẽ giống như cuộc bầu cử Giáo hoàng bởi cuộc họp
của các Hồng y Giáo chủ, khi tư cách và giá trị thật sự của cá nhân ít khi là
nguyên nhân chủ yếu để bổ nhiệm. Ông đề nghị bỏ chữ "Cơ quan lập pháp
quốc gia" và thay bằng "những công dân của Hợp chúng quốc".
Ngài SHERMAN: Tâm trạng của đất nước sẽ được cơ quan lập pháp thể
hiện tốt hơn là bởi dân chúng. Dân chúng không thể có những thông tin đầy
đủ về các cá nhân. Ngoài ra, không bao giờ có đủ đa số phiếu cho bất kỳ
ứng cử viên nào. Dân chúng thường chọn những người cùng tiểu bang, nên
tiểu bang lớn nhất có nhiều cơ hội nhất để chọn công dân của tiểu bang
mình làm Tổng thống. Nếu việc bầu chọn tiến hành bởi cơ quan lập pháp,
sẽ có đủ đa số phiếu cần thiết để chọn Tổng thống.
Ngài WILSON: Có hai lý do chống lại mô hình bầu cử Tổng thống do đa số
dân chúng thực hiện:
1. Ví dụ về nhà nước Ba Lan. Đó là nơi các cuộc bầu cử nguyên thủ quốc
gia thường gây ra những bạo động nguy hiểm nhất nhưng vì những lý do
hoàn toàn khác. quý tộc Ba Lan đều có tài sản lớn và đông người hầu giúp
họ có điều kiện đe dọa nền Cộng hòa cũng như đe dọa lẫn nhau. Tiếp theo,
tất cả các đại cử tri đều tụ tập tại một nơi, nhưng cuộc bầu cử Tổng thống
của chúng ta thì không như vậy.
2. Ða số dân chúng không bao giờ hoàn toàn nhất trí về một vấn đề. Nhưng
sự đồng lòng của đa số dân chúng không phải là nguyên tắc cần thiết cho
việc bầu cử. Không tiểu bang nào qui định như vậy cả. Có thể giải quyết
khó khăn này bằng cách được sử dụng ở Massachusetts, trong trường hợp
không có ứng cử viên nào chiếm được đa số phiếu của dân chúng, cơ quan
lập pháp được sẽ trao quyền quyết định. Ít nhất, qui định này cũng đảm bảo
người được chọn sẽ nằm trong số những người có tư cách tốt được đề cử,
và ở một mức độ nào đó, ngăn chặn những mưu đồ xấu xa. Ông kịch liệt
chống lại cuộc bầu cử hoàn toàn do cơ quan lập pháp tiến hành, bởi như
vậy, Tổng thống sẽ không thể đại diện cho tự do và lợi ích chung của dân