rằng nếu bản Hiến pháp liên bang không hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc
này, thì các bản Hiến pháp tiểu bang lại càng khó khăn để chấp nhận qui
định đó.
Tuy nhiên, có hai xem xét đặc biệt áp dụng đối với hệ thống Liên bang của
Mỹ làm cho hệ thống phân quyền và đối trọng này trở nên rất đáng quan
tâm.
Thứ nhất, trong một nước cộng hòa đơn lẻ, mọi quyền lực của dân chúng
đều được trao nộp cho cơ quan điều hành của một chính phủ độc nhất. Sự
lạm quyền được kiểm soát và đề phòng bởi việc chia chính quyền này thành
những bộ phận và ban ngành tách biệt nhau. Trong nhà nước Cộng hòa Liên
bang Mỹ, mọi quyền lực của dân chúng, trước tiên, được phân chia giữa hai
chính phủ riêng biệt. [Tức là giữa chính quyền tiểu bang và liên bang-ND].
Sau đó, các quyền được trao này lại được phân chia nhỏ ra giữa các nhánh
chính quyền khác nhau. Do đó, sự an toàn đảm bảo quyền lợi của dân chúng
sẽ được nhân đôi. Những chính quyền khác nhau đó sẽ kiểm soát lẫn nhau
và đồng thời bản thân mỗi chính quyền cũng tự kiểm soát chính mình.
Thứ hai, điều vô cùng quan trọng trong một nhà nước cộng hòa, đó là
không phải chỉ bảo vệ xã hội chống lại sự đàn áp của những người cầm
quyền mà còn phải bảo vệ bộ phận dân chúng này chống lại sự bất công,
đàn áp của bộ phận dân chúng khác. Trong những tầng lớp dân chúng khác
nhau, tất yếu phải tồn tại những lợi ích khác nhau. Nếu đa số thống nhất
một lợi ích chung thì quyền của thiểu số sẽ không được an toàn.
Lại có hai giải pháp để đối phó với nguy cơ này. Thứ nhất là tạo ra một ý
muốn của cộng đồng, độc lập với ý muốn của đa số, tức là tạo ra một lợi ích
chung cho toàn xã hội. Thứ hai, bởi việc phân chia toàn xã hội thành nhiều
nhóm riêng biệt, làm cho việc thống nhất ý định không đúng đắn của đa số
trở nên vô cùng khó khăn và không thể thực hiện được. Giải pháp đầu tiên
thường được dùng trong các chính quyền cha truyền con nối, hoặc tự phong
chức cho bản thân [tức là một nhà độc tài, không cần sự chấp thuận của dân