bang và tiểu bang sẽ được duy trì. Ông cũng đề nghị hai hệ thống chính
quyền này phải có các hệ thống tư pháp tách biệt, nhưng các cơ quan tư
pháp phải ủng hộ lẫn nhau vì những lợi ích chung.
Ngài PINCKNEY: Nếu các tiểu bang nhỏ được phép có một Thượng nghị
sĩ, [và số lượng Thượng nghị sĩ tỷ lệ với số dân], thì số thành viên Thượng
viện có lẽ sẽ rất lớn, ít nhất là 80 người.
Ngài DICKINSON: Trình bày hai lý do cho quan điểm của ông.
(1) Chính quyền tiểu bang sẽ chọn ra những Thượng nghị sĩ giỏi và có năng
lực tốt hơn nếu để dân chúng chọn;
(2) Ông mong muốn Thượng nghị viện sẽ bao gồm những cá nhân xuất
chúng nhất, cả về phẩm chất và trí tuệ, và càng vững mạnh càng tốt như
Viện quý tộc của nước Anh. Để tìm được những con người như vậy, nên để
các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn ra, hơn là bất kỳ phương pháp nào
khác. Ông không lo ngại và phản đối số lượng lớn Thượng nghị sĩ và cho
rằng số lượng này sẽ trong khoảng 80 đến 160. Thượng viện với số lượng
nghị sĩ quá ít sẽ không đủ sức mạnh đối trọng với Hạ viện. Cơ quan lập
pháp đại diện cho đông đảo quần chúng, thì cũng phải có một số lượng
đông đảo thích hợp.
Ngài WILLIAMSON: Ủng hộ một số lượng nhỏ các Thượng nghị sĩ, nhưng
muốn mỗi bang phải có ít nhất một người. Ông cho rằng con số 25 Thượng
nghị sĩ là thích hợp nhất. Sự khác biệt về cách thức bầu chọn đại biểu của
hai Viện cũng sẽ có tác dụng kiểm soát lẫn nhau.
Ngài BUTLER: Băn khoăn về tỷ lệ đại diện, nên chưa thể trình bày quan
điểm của mình.
Ngài WILSON: Nếu mục đích của những người có mặt tại Hội nghị này là
để thiết lập một chính quyền quốc gia, chính quyền đó phải bắt nguồn từ
đông đảo nhân dân. Nếu một Viện được các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu
chọn, còn Viện kia lại do người dân trực tiếp bầu ra thì hai Viện này sẽ dựa