Còn đối vói nhân dân, Trần Nhân Tông ban chiếu đại xá thiên hạ, miễn
giảm tô tịch, khoan sức dân.
Có lẽ trên đời ít có vua nào gần dân như Nhân Tông. Mỗi lần đi chơi đâu,
thấy gia đồng các vương hầu ở ngoài vua đều vẫy đến hỏi han tên gì, là gia
đồng của nhà ai. Nhà vua dặn các vệ sĩ không được quát tháo, mắng mỏ các
gia đồng và có lần nói với hoàng tử đi theo:
- Ngày thường thì bao nhiêu người hầu hạ quanh ta. Nhưng khi nước nhà
gặp hoạn nạn thì chính họ đã vì ta mà không tiếc thân.
(Về chuyện này về sau, trong sử triều Nguyễn, Tự Đức phê rằng xử sự
như vậy làm mất vẻ tôn nghiêm của thiên tử!)
Sáng lập Thiền phái Trúc Lâm tu hành
không xa lánh việc đời
Trần Nhân Tông ở ngôi 14 năm, đến năm 34 tuổi truyền ngôi cho con là
Trần Anh Tông, lên làm Thượng hoàng. Những năm đầu ngài rời Thăng
Long về ngự tại hành cung Thiên Trường vui cảnh đồng quê:
Xóm trước, thôn sau tựa khói lồng
Bóng chiều dường có lại dường không
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Bài thơ này là bài Thiên Trường vẫn vọng nổi tiếng của Trần Nhân Tông,
hiện được dạy trong chương trình văn học bậc phổ thông.
Từ Thiên Trường, Thượng hoàng vẫn luôn theo dõi để nhà vua trẻ điều
hành chính sự. Có lần Thượng hoàng đột ngột về kinh, đã quá trưa mà nhà
vua vẫn chưa dậy vì suốt đêm ham mê rượu chè. Thấy vậy, Thượng hoàng
không nói một lời, lẳng lặng ngồi kiệu trở về hành cung. Khi tỉnh rượu, nhà
vua sợ hãi toát mồ hôi, vội vã về Thiên Trường quỳ lạy trước sân phủ của
Thượng hoàng. Nhờ có tờ biểu thống thiết của nho sinh Đoàn Nhữ Hài,
Thượng hoàng mới tha cho.