chí có nghĩa là "Ghi chép theo từng loại mục phép tắc và điển chương của
các triều đại". Bộ sách gồm mười bộ môn, còn gọi là mười chí, có quan hệ
với nhau và đều là những vấn đề cốt yếu của quốc gia:
Địa dư chí: Khảo về đất đai, phong thổ và lịch sử Việt Nam qua các đời.
Nhân vật chí: Kể về tiểu sử vua chúa, tướng lĩnh, các bậc danh nho,
những người trung thần, tiết nghĩa có công.
Quan chức chí: Nói về chế độ quan lại qua các đời.
Lễ nghi chí: Khảo về các qui định, thể chế, phẩm phục của vua chúa, quan
lại cùng các nghi lễ trong triều đình.
Khoa mục chí: Bàn về chế độ giáo dục, khoa cử đời xưa.
Quốc dụng chí: Khảo về chế độ thuế khóa, tài chính qua các triều đại.
Hình luật chí: Xét về pháp luật các đời.
Binh chế chí: Bàn về qui chế tổ chức và việc luyện binh của các triều đại.
Văn tịch chí: Khảo về tình hình sách vở, thư tịch của Việt Nam.
Bang giao chí: Nói về việc giao thiệp, nghi lễ đón tiếp sứ thần các nước
qua các đời.
Mười bộ môn đó được tác giả viết thành 49 tập. Chỉ qua số tập sách cũng
như các vấn đề được trình bày đã thấy sự dụng công của tác giả. Để có được
kết quả ấy, ông phải đọc đi đọc lại hàng vạn trang giấy, ghi chép, kê cứu,
phát triển chỗ này, đính chính chỗ kia, để rồi vắt óc suy nghĩ viết ra những ý
tưởng của riêng mình, và từ những ý tưởng riêng rẽ ấy, ghép lại thành một
chỉnh thể thống nhất - một cuốn sách! Nhưng điều còn đáng trân trọng hơn
là những giá trị về tư tưởng trong công trình trước tác của họ Phan: "Xuyên
suốt tác phẩm là một tinh thần tự hào dân tộc cao quí và một quan điểm tiến
bộ về xã hội. Phan Huy Chú viết về đất nước Việt Nam, con người Việt
Nam, văn hóa Việt Nam, về thể chế của các triều đại trong lịch sử với một ý
thức sâu sắc rằng nước ta là một nước độc lập, tự chủ, có nền văn hiến, văn
minh lâu đời không kém gì Trung Quốc" (Từ điển văn học - mục từ Lịch
triều hiến chương loại chí). Trong khi trước tác, một mặt ông rất lưu tâm
bảo đảm tính khoa học, độ chính xác của các vấn đề trình bày, mặt khác ông