cũng được bôi trát bởi cùng cái chất bồi ấy: quả thông, con cá, con
sâu bướm, viên đá cuội, lá cây: u gò thuần túy của cái vỏ thế gian.
Càng cam go hơn nữa với tôi là việc ghi dấu trên trang giấy này
chuyến rong ruổi của Bradamante, của Rambaldo, hoặc của anh
chàng Torrismondo ủ rũ! Hẳn cần đến một sự cộm nổi cực kỳ nhẹ
nhàng trên một mặt phẳng đồng dạng như khi ta lấy mũi một chiếc
ghim kẹp vạch ra bên dưới tờ giấy, và có lẽ sự cộm nổi ấy, sự căng
trải ấy dù có thế nào cũng luôn luôn nạp tải và thụ thấm cái chất bồi
phổ biến của thế gian, và có lẽ chính ở đó: ý nghĩa, cái đẹp, nỗi đau,
cũng như chính ở đó: sự cọ xát và sự dịch chuyển đích thực.
Song làm sao tôi có thể tiến tới trong câu chuyện nếu cứ mãi băm
vằm trang giấy trắng, đào xới thung lũng, hẻm núi, thả chạy trên đó
những nếp nhăn, vết cạo, và đọc ra trong đó các cuộc tung vó hiệp sĩ?
Có lẽ tốt hơn, để tự hỗ trợ mình kể truyện, tôi nên vẽ ra một bản địa
đồ, với thôn làng êm đềm xứ Pháp, xứ Bretagne tự hào, con kênh
cuộn sóng đen ngầu xứ Anh, rồi xứ Scotland cao nguyên trên chỗ này,
và rặng Pyrénée nhọn hoắt dưới chỗ kia, và xứ Tây Ban Nha còn
trong tay quân ngoại-đạo, và châu Phi mẹ của loài rắn. Sau đó, với
mũi tên chỉ hướng, vạch chữ thập, số thứ tự, tôi có thể ghi dấu tuyến
đi của nhân vật này hoặc nhân vật kia. Thế là tôi đã có thể, qua một
vài tuyến đi vòng, vạch một đường tức tốc cho Agilulfo đổ bộ lên xứ
Anh, rồi cho chàng ta tiến về tu viện nơi Sophronia đã về ở ẩn từ
mười lăm năm nay.
Agilulfo tới nơi, tu viện chỉ còn là một đống đổ nát.
– Chàng hiệp sĩ cao thượng ạ, ngài đã đến đây quá muộn – một ông
lão nói – các thung lũng nơi đây còn dội vang tiếng thét của những cô
gái bất hạnh ấy. Một chiếc thuyền hải tặc Moor, cập bến vào vịnh này,
đã không chỉ cướp phá tu viện, mà còn bắt tất cả các nữ tu làm nô lệ
và thiêu rụi tường vách.
– Bắt đi? Mà đi đâu?