Cả hai tên lính áp sát cậu. Cậu giật lùi. Cậu cầm cán gươm mà như
thể bám dính vào nó: để mất gươm là tàn đời. Thế rồi, ngay vào thời
điểm cực kỳ khốn đốn đó, cậu nghe thấy tiếng vó ngựa phi nước đại.
Trước loạt âm thanh như trống rền đó, hai kẻ địch cùng tách ra khỏi
cậu; vừa giương khiên thủ thế vừa lùi ngựa. Rambaldo cũng xoay mặt
lại: cậu trông thấy bên cạnh mình là một kỵ sĩ của đạo quân Kitô giáo,
khoác chiếc áo choàng xanh dừa cạn trên bộ áo giáp. Một mào lông
vũ dài, cũng màu xanh dừa cạn, lất phất trên chiếc mũ sắt. Chàng ta
thoăn thoắt múa một ngọn giáo gọn nhẹ đánh bạt hai viên lính Hồi.
Lúc này Rambaldo và chàng hiệp sĩ không quen biết sát cánh bên
nhau. Chàng hiệp sĩ vẫn tiếp tục múa giáo. Một trong hai kẻ địch
buông ra một cú nhấp hòng hất tung ngọn giáo khỏi tay chàng hiệp sĩ.
Song đúng lúc đó chàng hiệp sĩ áo choàng xanh dừa cạn giắt giáo vào
yên ngựa, đưa tay rút cây đoản kiếm. Chàng ta xông vào kẻ ngoại-
đạo; họ đấu tay đôi. Rambaldo, chứng kiến cách rút đoản kiếm vô
cùng nhẹ nhàng của kẻ cứu viện không quen biết, hầu như quên bẵng
mọi sự, ngẩn người nhìn. Nhưng chỉ một giây phút thôi: giờ thì cậu
giơ khiên xông tới húc một cú cực mạnh vào kẻ địch còn lại.
Cậu sát cánh chiến đấu như thế với chàng hiệp sĩ áo choàng xanh dừa
cạn. Và mỗi khi hai kẻ địch, sau một đợt tấn công mới vô ích, thối lui,
thì người này lâm chiến với đối thủ của người kia qua một sự đổi chỗ
chớp nhoáng, và thế là càng gây hoang mang cho kẻ địch bằng võ
nghệ riêng của mỗi người. Chiến đấu sát cánh cùng một đồng đội
thích hơn chiến đấu đơn độc nhiều, vì có thể cổ vũ nhau, an ủi nhau.
Cái cảm xúc có một kẻ thù và cái cảm xúc có một người bạn tan hòa
vào nhau thành cùng một sự nồng ấm.
Rambaldo, để tự động viên, thường xuyên hô to với chàng hiệp sĩ;
còn chàng ta thì chỉ im lặng. Cậu hiểu rằng tốt hơn mình nên tiết kiệm
hơi thở trong chiến đấu, thế là cậu cũng im lặng; nhưng cậu hơi phật
lòng khi không nghe được giọng nói của người đồng đội.