Chương VIII
Truyện ơi! trời tối rồi, tôi đã nhanh nhanh ngòi bút hơn, từ dòng sông
chỉ vọng đến tiếng thác đổ xối xả trên cao xuống, những cánh dơi
lặng lẽ vụt qua cửa sổ, văng vẳng dăm ba tiếng gâu gâu, vài đợt phì
phò từ kho thóc. Có lẽ Xơ tu viện trưởng đã không chọn lầm hạnh-
sám-hối cho tôi: thi thoảng, tôi nhận thấy như thể ngòi bút tự nó một
mình phóng băng băng trên giấy, tôi phải bám theo sau. Chúng tôi,
ngòi bút và tôi, chạy hướng tới chân lý, cái chân lý mà tôi luôn luôn
trông ngóng là sẽ từ cuối một trang giấy trắng chạy đến tao ngộ mình,
và tôi chỉ có thể đạt được khi mà với những cú nảy bút, tôi chôn vùi
được tất cả các tâm thái biếng nhác, bất thỏa, ác ý vốn đang được tôi
kín cửa nơi đây chuộc tội.
Thế rồi chỉ cần tiếng một con chuột xoẹt ngang (tầng gác mái tu viện
có cả ổ), tiếng tấm che cửa sổ đập lạch cạch vì gió lùa (lúc nào cũng
dẫn đến sự chia trí, và tôi vội vàng chạy ra mở lại), chỉ cần sự kết thúc
một tiết truyện rồi bắt đầu một tiết truyện mới, hay chỉ cần quay
ngược về đầu hàng, thì ngọn bút lại nặng trịch như một đòn xà rầm và
cuộc truy tầm chân lý lại trở nên bấp bênh.
Bây giờ tôi phải miêu tả các vùng đất mà Agilulfo và viên lính hầu đã
qua trong chuyến đi, tất cả đều phải có chỗ trên trang giấy này: con
đường cái quan bụi mịt mù, dòng sông, cây cầu; và đây: Agilulfo
đang băng ngang trên lưng con tuấn mã cất vó nhịp nhàng cờ-lóc-cóc!
cờ-lóc-cóc!, chàng hiệp sĩ không cơ thể chả nặng là bao, con tuấn mã
có thể phi muôn dặm trường không biết mệt, và vị chủ nhân thì lại
càng không biết mệt. Lúc này, vùn vụt trên cầu là một cuộc phi nước
đại nặng kình kịch: cờ-lộp-cộp! cờ-lộp-cộp!, Gurdulù đang bám chặt
cổ con ngựa của mình phóng tới, hai mái đầu sát rạt vào nhau đến
mức không còn biết con ngựa đang suy nghĩ bằng mái đầu của viên
lính hầu, hay viên lính hầu đang suy nghĩ bằng mái đầu của con ngựa.
Tôi vạch một đường thẳng trên giấy, đôi chỗ bẻ góc, đó là tuyến đi