điều trị bệnh đúng cách, người ta vẫn luôn có cách loại bỏ đứa con không
mong muốn bằng cách vô tình hay cố ý không quan tâm đến nó.
Ngay cả khi trẻ không chết trước hay sau khi sinh, nếu cha mẹ mong có con
trai hơn thì họ sẽ tiếp tục đẻ cho đến khi có con trai mới thôi. Điều này có
nghĩa các em gái thường lớn lên trong gia đình đông anh em hơn và không
thực sự được chào đón trong chính gia đình mình. Ở Ấn Độ, bé gái sơ sinh
bị cai sữa sớm hơn bé trai, đồng nghĩa với việc phải uống nước sớm hơn và
nhiều nguy cơ tiếp xúc với bệnh tật nguy hiểm chết người do nguồn nước
không đảm bảo, chẳng hạn bệnh tiêu chảy.
dụng ngừa thai của việc cho con bú lại bị tận dụng theo cách này. Sau khi
sinh con gái (đặc biệt là con gái đầu lòng), cha mẹ thường muốn cai sữa cho
đứa trẻ sớm để người vợ nhanh chóng mang thai trở lại.
Dù nguyên nhân chính xác của vấn nạn trọng nam khinh nữ (hay thai nhi
nữ) là gì đi nữa thì vẫn tồn tại thực tế rằng, hiện nay thế giới có ít phụ nữ
hơn so với dự đoán của ngành sinh học con người. Vào những năm 1980,
trong một bài báo trên tờ New York Review Of Books mà ngày nay đã trở
nên kinh điển, Amartya Sen tính toán rằng thế giới “thiếu” 100 triệu phụ nữ.
Kết luận này được đưa ra từ khi chưa xuất hiện công nghệ phá thai để
chọn giới tính. Và ngày nay tình trạng thiếu nữ giới đang ngày càng trầm
trọng hơn. Tại một số địa phương ở Trung Quốc, tỉ lệ nam nữ ngày nay là
124 nam trên 100 nữ. Trong giai đoạn 1992-2001 (năm điều tra dân số gần
đây nhất ở Ấn Độ), tỉ lệ nam nữ dưới 7 tuổi tăng từ 105,8 lên 107,8 trên 100
nữ. Năm 2001, tại Punjab, Haryana và Gujarat, ba bang giàu nhất Ấn Độ
đồng thời cũng là những nơi nạn trọng nam khinh nữ trầm trọng hơn cả, tỉ lệ
nam nữ lần lượt là 126,1, 122,0 và 113,8 nam trên 100 nữ.
chỉ dựa vào số liệu tự báo cáo vốn không phản ánh được thực trạng phá thai,
thì số ca phá thai vẫn đặc biệt cao ở những bang nói trên. Tại những gia đình
đã có hai con gái, 6,6% số ca mang thai kết thúc do sảy thai và 7,2% do phá
thai “tự nguyện”.