ra dường như vô tận những lựa chọn cho một hệ cơ quan này, và rồi tới cơ
quan khác được an bài dựa trên nhiều hạng mục phân loại của các loại vi
khuẩn và ung thư. Khi khám nghiệm tử thi, phát hiện có thể dự đoán nhất
quán một cách duy nhất là sự suy yếu kiệt quệ của mô bạch huyết, một phần
của hệ miễn dịch. Trên bàn mổ, thậm chí cả các thành viên của đội chăm sóc
bệnh nhân AIDS cũng thường xuyên bị bất ngờ bởi sự liên quan của những
khu vực không ngờ tới và mức độ tàn phá mà các mô của bệnh nhân phải
chịu.
Suy hô hấp, nhiễm trùng, sự phá hủy mô não do khối u hoặc nhiễm trùng
– đây là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chết phổ biến hơn; một vài
bệnh nhân xuất huyết trong não, hoặc phổi, hay thậm chí là đường dạ dày-
ruột, một số chết vì bệnh lao lan rộng hoặc sarcoma; các cơ quan bị suy, các
mô xuất huyết, nhiễm trùng ở khắp nơi. Và luôn luôn có hiện tượng suy dinh
dưỡng. Bất kể cường độ của các biện pháp hoạt hóa để chống lại nó, không
gì ngăn cản được đói ăn. Bộ phận chăm sóc các bệnh nhân AIDS giai đoạn
cuối có đầy những con người gầy mòn, như những hồn ma với những đôi
mắt thụt sâu đờ đẫn trong hốc mắt sâu hoắm, những gương mặt thường
xuyên không biểu cảm gì, những thân hình khô xác héo hon, yếu ớt nhăn
nheo trước tuổi. Đa số đều mất hết cả dũng khí. Virus đã cướp đi của họ tuổi
trẻ, và nó sắp cướp cả của họ phần đời còn lại.
Nhà nghiên cứu bệnh học qua giải phẫu tử thi phân nguyên nhân gây ra
cái chết thành hai cấp bậc khác nhau về: Họ nói tới nguyên nhân gần đúng
của cái chết (the proximate cause of death – PCOD) và nguyên nhân tức thời
của cái chết (the immediate cause of death – ICOD). Đối với những người
còn trẻ này, PCOD sẽ là AIDS – còn ICOD cụ thể dường như không mấy
quan trọng. Mức độ đau đớn là tương tự ở tất cả mọi người, dù chất lượng
thì khác nhau. Tôi đã nói chuyện về những vấn đề này cách đây không lâu
với bác sĩ Peter Selwyn, một trong những số ít giáo sư ở Yale quyết tâm
cống hiến cho việc chăm sóc các bệnh nhân AIDS, người đã cổ vũ cho
những nỗ lực của các bác sĩ nội trú và sinh viên tại trường chúng tôi. Dù
đóng góp rất nhiều về mặt chuyên môn cho những hiểu biết hiện tại về HIV,
ông lại là người kiệm lời, diễn đạt những khái niệm rộng lớn bằng vài từ ít