nhiều người đang hấp hối, phòng chăm sóc tích cực, với sự cách ly giữa
những người xa lạ, dập tắt hy vọng không bị bỏ rơi trong những giờ phút
cuối cùng của họ. Thực tế, họ đã bị bỏ rơi, cho những mục đích tốt đẹp của
những cán bộ chuyên môn lành nghề hầu như không biết gì về họ.
Ngày nay, xu hướng phổ biến là che giấu cái chết khỏi tầm mắt. Trong mô
tả kinh điển về những tục lệ liên quan tới cái chết, sử gia xã hội người Pháp,
Phillippe Ariès gọi hiện tượng hiện đại này là “Cái chết Vô hình”. Ông chỉ
ra rằng, giai đoạn hấp hối thì xấu xí và bẩn thỉu, còn chúng ta không dễ gì
chịu đựng thêm nữa những điều xấu xí và bẩn thỉu. Bởi vậy cái chết cần
được giấu kín và diễn ra ở những nơi tách biệt:
Cái chết được giấu kín trong bệnh viện bắt đầu một cách thận trọng từ những năm 1930 và
1940 rồi trở nên phổ biến sau năm 1930… Các giác quan của chúng ta không còn chịu đựng
được các cảnh tượng và các loại mùi gắn liền với nỗi đau đớn và bệnh tật, dù hồi đầu thế kỉ
XIX chúng là một phần của cuộc sống hằng ngày. Những tác động về sinh lý học đã vượt qua
từ cuộc sống hằng ngày tới thế giới vô trùng của vệ sinh, y học và đạo đức. Biểu hiện hoàn hảo
của thế giới này là bệnh viện, với kỷ luật kiểu tế bào của nó… Mặc dù không phải lúc nào điều
này cũng được thừa nhận, bệnh viện đã mang đến cho các gia đình một nơi để họ có thể che
giấu được những người bệnh khó coi mà cả thế giới lẫn họ đều không chịu đựng nổi… Bệnh
viện đã trở thành chỗ dành cho cái chết đơn độc.
Giờ đây, 80% người Mĩ chết ở bệnh viện. Con số tăng dần lên từ năm
1949, khi đó mới là 30%; năm 1938, nó đạt mức 61%, và năm 1977 là 70%.
Tỷ lệ này gia tăng không chỉ vì quá nhiều người hấp hối cần được chăm sóc
tích cực ở mức độ cao mà chỉ trong bệnh viện mới có thể đáp ứng được. Sự
biểu trưng văn hóa của việc cô lập người hấp hối ở đây có ý nghĩa ngang với
quan điểm điều trị nghiêm ngặt về khả năng tiếp cận đã được cải thiện tới
những tiện nghi và nhân sự đặc biệt, và đối với hầu hết các bệnh nhân thì
còn hơn thế nữa.
Cái chết đơn độc giờ đây được nhận thức rõ ràng đến mức, xã hội của
chúng ta đã tổ chức chống lại nó, và chúng ta nên làm như vậy. Từ sự uyên
thâm của các văn bản pháp luật được gọi là bản chỉ dẫn trước, cho tới những
triết lý đáng tranh cãi của các hội ủng hộ tự sát, có một loạt các lựa chọn ra