lối này đến trường. Mẹ tôi từng bảo em trai Buckley của tôi, hồi nó còn bé
tý, rằng ngô trong cánh đồng này không ăn được, khi nó hỏi sao không thấy
ai ăn. "Ngô này dành cho ngựa, không phải cho người," bà nói. "Cũng
không cho chó, hở mẹ?" Buckley hỏi tiếp. "Không con ạ", mẹ trả lời.
"Cũng không cho khủng long à?" Buckley cứ thế hỏi mãi không dứt.
"Chú mới làm xong một chỗ trú ẩn nho nhỏ," Harvey lên tiếng.
Hắn dừng bước quay lại nhìn tôi.
"Cháu có thấy gì đâu," tôi trả lời. Tôi chợt nhận ra hắn đang nhìn tôi bằng
ánh mắt lạ lùng. Tôi đã từng bắt gặp ánh mắt tương tự ở những người đàn
ông lớn tuổi từ ngày tôi không còn nét bụ bẫm của trẻ con nữa, nhưng
thường thì đầu óc họ cũng không đến nỗi phát cuồng khi nhìn tôi khoác
chiếc áo pác-ca có mũ trùm màu xanh dương và mặc quần ống loe màu
vàng. Tròng mắt kính của hắn nhỏ và tròn, gọng vàng, hắn nhướn mắt nhìn
tôi từ phía trên gọng kính.
"Phải tập quan sát kỹ hơn đi chứ, Susie." hắn bảo.
Tôi linh cảm mình nên tìm cách ra khỏi chỗ đó, nhưng tôi lại không làm.
Tại sao tôi không làm thế nhỉ? Franny bảo rằng thế chẳng ích gì: "Cháu đã
không làm, và thế là hết chuyện. Đừng nghĩ tới nghĩ lui mãi. Chẳng được
gì. Cháu đã chết rồi, phải chấp nhận thế thôi."
"Thử tìm lần nữa đi." Harvey nói rồi ngồi xổm, vỗ vỗ trên mặt đất.
"Cái gì thế?" tôi hỏi hắn.