tiên của cuộc điều tra thủ phạm, hóa ra còn kéo dài khá lâu – tiến ra trước.
Samuel cũng nối bước. Hai cậu tự nhiên làm nhiệm vụ hai mục sư trẻ, đưa
bố và hai em tôi đến nhóm người đang đứng, họ dạt ra cho rộng lối, mọi
người nín lặng cả.
Suốt mấy tháng trời bố tôi chẳng ra khỏi cửa trừ khi lái xe đến hãng hay về
nhà, hoặc ngồi ở sân sau, cũng chẳng gặp mặt người hàng xóm nào. Giờ
đây ông nhìn kỹ mặt từng người một, và chợt hiểu rằng, cả những người
ông không nhận ra là ai, đều quý mến tôi. Tim ông căng lên, ấm lại, hình
như đã lâu lắm rồi ông mới lại có cảm giác đó, nếu không kể những giây
phút ngắn ngủi bên Buckley, những lúc cậu con trai bất chợt biểu lộ lòng
trìu mến với ông.
Bố nhìn ông O’Dwyer. “Bác Stan này,” bố nói, “mùa hè cháu Susie hay
đứng ở cửa sổ nhìn ra phố, lắng nghe tiếng bác hát trong vườn nhà. Cháu
nó thích lắm. Bác hát cho chúng tôi nghe nhé?”
Nhờ có giọng ca thiên phú, loại ơn phước hiếm ai được ban, và khi cần
nhất lại không có được – chẳng hạn để cứu một người thân khỏi tay thần
chết – ông O’Dwyer cất tiếng, chỉ hơi rung ở nốt nhạc đầu thôi, sau đó
tiếng ông vang dội, trong veo và thanh thoát.
Mọi người hòa tiếng đồng ca.
Tôi hồi tưởng lại những đêm hè bố tôi vừa nhắc tới. Nhớ lại là tôi chờ mãi
trời mới sẩm tối, tôi vẫn mong mỏi vì đêm đến sẽ dịu cơn nóng bức. Thỉnh
thoảng, đứng ở cửa sổ nhìn ra mặt tiền nhà mình, tôi đón làn gió nhẹ thổi
qua mang theo tiếng nhạc từ nhà ông O’Dwyer vọng tới. Trong lúc tôi lắng
nghe ông lần lượt hát hết mọi bài dân ca Ireland ông thuộc nằm lòng, thì
gió bắt đầu đưa đến mùi đất, mùi không khí đượm chút ẩm của rong rêu,
báo hiệu cơn dông sắp tới.