Năm nay em trai tôi lên bảy, em xây cho tôi một pháo đài. Trước kia cả hai
chị em tôi đã có dự tính hai đứa cùng xây, nhưng sau đó bố tôi không sao
bắt tay khởi sự. Xây gì cũng gợi bố nhớ lại chuyện đã cùng dựng túp lều
vải với tên Harvey nay biến mất không chút tăm hơi.
Một gia đình với năm bé gái dọn vào ở trong ngôi nhà của tên Harvey.
Tiếng cười khanh khách từ chiếc hồ bơi – chủ nhà mới cho đào đất xây lên
vào mùa xuân sau vụ Harvey bỏ trốn – vang vào tận phòng làm việc của bố
tôi. Tiếng cười nói của các bé gái – những đứa may mắn chưa bị lâm nạn.
Ông đau đớn như thể tiếng cười biến thành những mảnh kính vỡ vụn chọc
vào tai mình. Suốt mùa xuân năm 1976 – sau hôm mẹ tôi bỏ đi – ông đóng
kín cửa sổ phòng làm việc, ngay cả lúc lúc trời oi đến chiều tối vẫn còn
nóng bức, để khỏi nghe những âm thanh kia. Ông dõi mắt nhìn theo cậu
con trai bé bỏng thui thủi chơi trong khoảng vườn giữa ba bụi liễu tơ, lẩm
bẩm nói chuyện một mình. Buckley bưng mấy chậu sành rỗng cất trong nhà
để xe ra. Em lôi tấm thảm chùi giày vứt bên hông nhà. Tóm lại, tất cả thứ gì
dùng được vào việc dựng bức tường thành cho pháo đài. Có Samuel, anh
Hal và Lindsey phụ một tay, em vần hai tảng đá lớn vốn dùng làm mốc cho
lối đi vào nhà để xe ra tận vườn sau. May cho em hết sức là Samuel thấy
thế mới hỏi: “Bé định lấy gì lợp mái đây?”
Buckley ngẩn ra chưa biết nói sao thì Hal đã nhẩm tính, soát lại xem ở tiệm
của mình có những thứ gì, anh nhớ ra có hai tấm uốn sóng không dùng tới,
vẫn dựng tạm vào vách tường sau nhà.
Một đêm hè nóng bức nọ, bố tôi từ trên lầu nhìn xuống, không thấy con trai
mình đâu. Buckley đã chui vào nằm trong pháo đài của em. Em lấy tay bê,
dùng đầu gối làm chỗ tựa, khệ nệ đưa được mấy chậu sành vào bên trong,
rồi kê vào đấy một tấm ván cao gần đến mái tôn uốn sóng. Ánh sáng lọt