mẩu xương khủy tay. Mẹ tôi bắt đầu khóc rấm rức.
"Kể từ này chúng tôi sẽ xử lý vụ này như một án mạng," Fenerman nói.
"Nhưng xác cháu vẫn chưa tìm ra mà," bố cố vớt vát.
"Mọi tang chứng đều cho thấy con gái ông đã chết thật rồi. Tôi xin thành
thực chia buồn."
Viên cảnh sát mang sắc phục cứ nhìn chệch sang bên phải, tránh ánh mắt
van lơn của bố tôi. Tôi tự hỏi phải chăng họ đã học ở trường nghiệp vụ
cách phản ứng như thế. Còn ông Len Fenerman nhìn thẳng vào mắt bố tôi.
"Tôi sẽ ghé lại lần nữa trong ngày," ông bảo.
Lúc quay vào phòng khách, bố tôi suy sụp đến nỗi không thể chìa tay cho
mẹ tôi đang ngồi trên thảm hay cho em tôi đang đứng chết trân bên cạnh.
Ông lên lầu, nhớ rằng có Holiday nằm trên tấm thảm trong phòng làm việc.
Hồi nãy ông thấy nó nằm đó. Tí nữa đây, vùi mặt vào bộ lông dày quanh cổ
nó, bố mới bật ra tiếng khóc.
Buổi trưa hôm ấy cả ba người đều rón rén đi lại, cố giữ im lặng, như sợ
rằng tiếng bước chân sẽ xác nhận những tin mới kia. Bà mẹ cu Nate gõ cửa
để giao trả Buckley. Không ai ra mở cửa. Bà lùi ra vì linh cảm đã có
chuyện gì đấy xảy ra trong ngôi nhà này, tuy nó giống y những nhà bên
cạnh. Bà trở thành đồng lõa với em trai tôi, khi bảo sẽ dắt nó ra hiệu kem
cho ăn đến kỳ chán mới thôi.
Cuối cùng, lúc bốn giờ, mẹ và bố tôi cùng đứng trong căn phòng dưới nhà.
Mỗi người vào bằng một cửa khác.
Mẹ tôi nhìn bố: "Bà ngoại", bà bảo, và ông gật đầu. Ông quay số gọi cho bà
ngoại Lynn, người duy nhất còn sống trong các ông bà của chúng tôi.