“Cháu cứ nhớ mẹ cháu mãi,” tôi bảo thế.
Franny lấy cả hai tay ủ bàn tay trái của tôi và mỉm cười.
Tôi muốn hôn nhẹ lên má bà hoặc được bà ôm vào lòng, nhưng lại thôi, chỉ
đứng nhìn bà bước xa dần, nhìn tà áo xanh của bà khuất dần. Tôi biết bà
không phải là mẹ mình. Tôi không thể làm như thể bà là mẹ mình được.
Tôi quay gót về lại tòa vọng lâu. Tôi cảm thấy khí ẩm luồn suốt dọc tứ chi,
đẩy nhẹ, rất nhẹ, ngọn những sợi tóc của tôi. Tôi nghĩ đến những màng
nhện vào buổi sáng tinh mơ, sương đọng tựa như hạt ngọc, vậy mà nhiều
khi tôi nở đưa tay gạt nhẹ, phá đi không chút bận tâm.
Vào buổi sáng sinh nhật thứ mười một của mình, tôi thức giấc thật sớm.
Chưa ai dậy cả, tôi tưởng thế. Tôi rón rén xuống nhà nhìn vào phòng ăn,
nghĩ là quà cho mình để ở đó. Nhưng chẳng có gì hết. Cũng vẫn cái bàn y
như hôm trước. Nhưng khi quay người lại tôi mới thấy nó nằm trên cái bàn
của mẹ trong phòng sinh hoạt. Cái bàn rất đẹp này lúc nào cũng sạch bóng.
Bố mẹ gọi là “bàn để thanh toán hóa đơn.” Cái máy ảnh bọc giấy mềm
nhưng chưa đóng hộp đang nằm đó – món quà tôi đã hỏi xin bằng giọng
năn nỉ than van, không dám tin rằng bố mẹ sẽ mua cho mình. Tôi lại gần
cúi nhìn ngẩn ngơ. Đó là một chiếc tự động Instamatic, bên cạnh là ba cuộn
phim và một hộp bốn bóng đèn nháy vuông vức. Đó là cái máy ảnh đầu tiên
của tôi, hộp đồ nghề ban đầu để sau này làm nghề mình ưa thích. Một nhiếp
ảnh viên chuyên chụp thú rừng.
Tôi nhìn quanh. Không có ai. Nhìn qua tấm mành cửa trước mà mẹ tôi luôn
để xeo xéo – “ mời mọc nhưng vẫn kín đáo” – tôi thấy Grace Tarking, nhà
ở cuối phố, học trường tư thục, đang tập môn đi bộ, cổ chân cô nàng cột
mấy quả tạ nhỏ. Tôi hấp tấp nạp phim rồi rình săn ảnh Grace Tarking, tôi
hình dung mai sau lớn lên cũng sẽ rình rập săn ảnh voi và tê giác trong