cửa phòng tôi giống cửa các phòng khác, đều mỏng mảnh, tống mạnh cũng
thủng. Ông định đập tan tấm gương trên tủ quần áo của tôi, định lấy móng
tay xé giấy dán tường, nhưng thay vì làm thế, ông lại ngã lăn ra giường tôi
khóc nức nở, vo tròn tấm khăn trải giường màu hoa oải hương trong đôi
tay.
“Bố đó hả?” Buckley hỏi. Em tôi nắm quả đấm cửa.
Bố quay lại nhưng không sao ngăn được nước mắt. Ông tuột xuống sàn, tay
vẫn nắm tấm khăn giường, rồi dang rộng hai tay. Ông phải bảo em trai tôi
hai lần, điều chưa từng thấy, và Buckley đã tới bên ông.
Bố quấn em trong cái khăn còn mùi tôi. Ông nhớ lại ngày tôi năn nỉ ông
sơn và dán giấy tường màu tía cho tôi. Hồi tưởng lúc xếp những số cũ của
tạp chí National Geographics vào tầng kệ dưới cùng. (Tôi từng muốn miệt
mài trong nghề nhiếp ảnh dã thú). Hồi tưởng quảng thời gian ngắn ngủi khi
trong nhà mới có một đứa con, trước ngày Lindsey ra đời.
“Với bố, con là đứa rất đặc biệt đấy, nhóc ạ,” bố vừa nói vừa ôm nó.
Buckley lùi lại, nhìn đăm đăm vào gương mặt nhăn nheo của bố với những
giọt lệ long lanh nơi khóe mắt. Nó nghiêm trang gật đầu và hôn lên mà bố.
Một điều thiêng liêng đến thế thì ngay cả trên thiên đường cũng không ai
nghĩ ra được: đó là sự chăm chút một đứa bé con dành cho một người lớn.
Bố tôi quàng tấm trải giường lên vai Buckley và hồi tưởng chuyện tôi lăn
từ trên cái giường to bốn cọc rơi xuống thảm mà không hề thức giấc. Lúc
ấy đang ngồi đọc sách trên cái ghế xanh lục trong phòng làm việc, ông giật
nảy mình nghe tiếng tôi rớt xuống đất. Ông đứng dậy đi một khúc ngắn tẹo
đến phòng tôi. Ông hay ngắm tôi ngủ ngon lành, ác mộng hay ngay cả sàn
nhà cứng cũng không đánh thức nổi. Những lúc như thế, ông thề sẽ làm tất
cả để tạo điều kiện cho các con ông trở thành vua hay chúa, nghệ nhân hay
bác sĩ, hoặc nhà nhiếp ảnh dã thú. Chúng mơ gì được nấy.