hình vòng cung qua các cột có ngạnh, rồi xỏ loại lạt mảnh hơn bện thành
những vòng bán cung trong hướng ngược lại. Ông tập cách túm các đầu
que lại buộc vào những thanh bắc ngang. Ông được biết mình làm theo
những cách thức này là vì Harvey mới đọc một cuốn sách về bộ lạc
Imezzureg và muốn dựng một cái lều y theo cách của họ. Ông đứng đó,
nghĩ bụng tay này quả là dở hơi đúng như hàng xóm vẫn đồn. Cho đến nay,
họ cũng chỉ nói thế.
Nhưng khi dựng xong cái khung cơ bản – tất cả chỉ cần một tiếng đồng hồ -
thì Harvey đi vào nhà mà không nói để làm gì. Bố tôi tưởng là để nghỉ tay.
Hoặc hắn ta vào uống cà-phê, hay pha một bình trà.
Ông nhầm. Harvey vào nhà lên lầu để kiểm lại con dao lạng thịt hắn để
trong phòng ngủ. Con dao vẫn nằm trong ngăn kéo bàn để ở đầu giường,
trên bàn là quyển vở nháp trong đó hắn hay vẽ phác lại những mẫu mã sơ
đồ thấy trong mơ mỗi khi bừng mắt thức giấc giữa đêm khuya. Hắn nhìn
vào trong cái bao giấy gói của tiệm tạp hóa đã vo tròn nhàu nát. Máu của
tôi đọng trên lưỡi dao giờ đã đen sẫm. Nghĩ đến điều đó, rồi hồi tưởng lại
những gì hắn làm dưới hầm khiến hắn sực nhớ lại điều đã đọc về một bộ
lạc có phong tục khác thường ở miền nam Ayr. Rằng khi vừa dựng lều cho
một đôi nam nữ mới làm lễ hôn phối xong, những người đàn bà của bộ lạc
đem hết tài nghệ khéo léo ra may một tấm khăn thật đẹp để phủ lên lều.
Bên ngoài tuyết bắt đầu rơi. Kể từ hôm tôi lìa trần đến nay tuyết mới lại rơi,
và bố tôi cũng chợt có cùng ý nghĩ như tôi.
“Bố có nghe thấy tiếng con rồi, bé yêu ạ,” ông thầm bảo tôi, tuy tôi chẳng
hề mở miệng. “Gì thế kia?”
Tôi cố tập trung theo hướng mắt ông nhìn và thấy một bông hoa phong lữ
đã héo úa. Tôi nghĩ nếu tôi làm cho hoa nở lại được thì ông sẽ có câu trả lời
ngay. Thế là trên thiên đường của tôi hoa nở rộ ngay lập tức. Những cánh
hoa phong lữ xoay xoay bay rợp trời rơi xuống nằm ngập đến thắt lưng tôi.