- Tôi có biết Montmartre, - y trả lời tôi với giọng người đang đàm đạo
thân mật đượm mùi tiếc nuối. Và tôi hiểu rằng tôi đã bám được vào cây sào.
- Lấy anh nầy, - y nói với Helmut, trưởng khối của chúng tôi,
- Hú vía! Tôi thở hắt hết không khí bí giữ lại trong phổi và sức lực bị tiêu
hao trong 48 giờ vừa qua nay đã trở lại khi nghe mấy lời đó. Sau đó y chỉ
định thêm hai người Ba-Lan, một người phụ trách tầng dưới và người kia,
thư ký khối vì anh nầy biết cả tiếng Đức lẫn tiếng Nga.
Buổi họp hình như đã chấm đứt, khi bên cạnh tôi, một tù nhân người
Pháp đến khúm núm xin phép được trình đôi lời với viên niên trưởng.
- Tôi là người Alsace, - hắn ấp úng, - tôi hy vọng các ông sẽ chấp nhận sự
phục dịch của tôi.
Từ khi chúng tôi được biết hắn ta, hắn ta chỉ ầm ừ với chúng tôi có vài
tiếng và chẳng ai chú ý đến hắn cả. Chúng tôi chỉ biết hắn tên là Paul.
- Chú mày có sức khỏe, làm một chân Kapo được lắm, - viên niên trưởng
hứa với hắn ta.
Trên kia, những tên cai đang tìm kiếm, như trong một chợ nô lệ, số người
cần thiết cho những công việc khác nhau trong ngày hôm nay: Khuân vác
vật liệu, làm “vệ sinh và tạp dịch đủ thứ. Bọn Tziganer cũng có mặt ở đó
với gậy gộc để đưa các toán đến các địa điểm khác nhau. Phần đông tù Pháp
đã có thể ở lại trong nhà với tôi, với nhiệm vụ sửa soạn một phòng cho viên
trưởng khối.
Helmut tỏ ra rất chịu giá trị của thủ công nghệ Pháp bằng cách phân phối
súp rất rộng rãi. Tuy nhiên y không để mất hướng, bởi vì sự rộng rãi trong
khi phát xúp chẳng qua cũng chỉ là một cách nhắc nhở gián tiếp chúng tôi
về thuốc lá: thuốc điếu Gaulois. Bất cứ người ngoại quốc nào ghiền thuốc
mà biết qua thuốc Gaulois đều cũng trở thành các tay hâm mộ nó nồng
nhiệt. Ở đây sự ưa thích đó trở thành điên cuồng. Một người trong bọn tôi
còn vài điếu đã làm một cuộc thương lượng thích thú và không kém lạ kỳ;
một lít xúp ăn thêm trong suốt 15 ngày, một phần margarine trong suốt một
tuần, và bánh mì. Tuy nhiên điều kiện sau cùng liên hệ tới bánh mì là nhiệm