và từ một con đường ở xa thật xa, không một ai có thể nghi ngờ chúng tôi là
hạng người gì. Trong tình thế lấy hai chọi một, ta có thể yên tâm được phần
nào, như vậy sau khi ra hiệu cho Marcel để tôi nói, bằng một giọng bình
tĩnh nhưng rõ ràng, tôi mạo hiểm thốt câu đầu tiên
- Pháp?
- Phải, Breton.
Anh ta đã nói cái gì kia! Marcel tràn đầy cảm động, lập tức bắt đầu câu
chuyện dùng toàn tiếng lóng địa phương hết sức lạ tai đối với tôi.
- Còn quân Mỹ?
Tôi lợi dụng một lúc Marcel ngừng nói để đặt câu hỏi ấy.
- Chúng tôi chờ đợi họ đến ngày hôm nay hay ngày mai, - anh ta trả lời
tôi. - Bà chủ sai tôi đến đây đào một cái hầm để dấu một ít khoai tây vì bả
sợ bị trưng dụng hết cả.
Và dùng ngón tay trỏ hướng về phía Nam, anh ta chỉ cho chúng tôi thấy
một nóc lầu chuông nhà thờ và các mái nhà lợp ngói đỏ. Đó là ngôi làng mà
anh ta được đưa đến ở từ ba năm qua. Cũng giống như tất cả tù binh chiến
tranh được xử dụng trong các nông trại, anh ta ở đấy như chuột sa vào hũ
gạo. Làm nhiều việc, chắc chắn rồi, nhưng được nuôi ăn kỹ, gần như được
hoàn toàn tự do, và các mối lợi khác phát sinh từ sự vắng mặt của đàn ông
Đức vì họ phải đi nhập ngũ. Thoạt tiên anh tưởng chúng tôi là tù vượt ngục,
thật ra cũng gần đúng như vậy ngoại trừ anh ta không biết trại tập trung là
và trong vài lời vắn tắt, Marcel cố gắng soi sáng anh ta, nhưng anh ta có vẻ
đang tự hỏi có phải chúng tôi đang kể một câu chuyện tiểu thuyết đăng
trường kỳ trên nhật báo hay không. Chúng tôi không thể để mất thì giờ.
Cuộc gặp gỡ của chúng tôi rất cảm động, tuy nhiên sau tình cảm, thực tế đã
trở lại với quyền hành của nó. Đó là một gã tốt bụng, một mẫu người thuần
hậu đơn giản, không hề có một ý thức nào về trạng huống của chúng tôi.
Anh ta lấy làm tiếc là đã không mang theo phần bánh mì của mình, và đáp
một câu hỏi, anh ta cho biết chúng tôi đang ở về phía Đông của sông Elbe,
gần chính giữa con đường nối Hambourg và Magdebourg. Anh ta có một
chiếc bật lửa. Đấy chính là tất cả những gì chúng tôi cần. Duy có điều khi