là sẽ không có Tổng tuyển cử đâu”. Nếu không có Tổng tuyển cử, Hà Nội
buộc phải tìm cách khác, có thể quay sang chiến lược chiến tranh cách
mạng. Trong lúc này, Hồ Chí Minh buộc phải dùng tài năng của mình
thuyết phục các đồng chí của ông dành cơ hội thực thi hiệp định.
Trong thời gian này, giới lãnh đạo đảng gắng sức chuẩn bị tình huống
xấu. Theo những đánh giá khác nhau, có khoảng 50.000 và 90.000 người
thiện cảm với Việt Minh (nhiều người trong số này là con cái các cán bộ
đảng đang sống ở miền Nam) ra miền Bắc sau hiệp định và khoảng 10.000
đến 15.000 người, chủ yếu là những cựu trào cách mạng, vẫn ở lại miền
Nam tham gia hoạt động hợp pháp thúc đẩy Tổng tuyển cử. Một số khác rút
vào bí mật để bảo toàn và duy trì bộ máy cách mạng bí mật, khi cần ra hoạt
động trở lại.
Có nhiều trở ngại cho Tổng tuyển cử, trong số những trở ngại lớn nhất là
thái độ của chính phủ mới ở miền Nam. Tháng 6-1954, khi hội nghị
Geneva đang họp, Quốc trưởng Bảo Đại đã bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm
thủ tướng. Ngô Đình Diệm là một chính trị gia cựu trào từng bị chính phủ
lâm thời Hồ Chí Minh bắt giam một thời gian ngắn vào mùa Thu năm
1945, sau khi được thả, để bảo vệ tính mạng, Diệm đã trốn một thời gian
ngắn tại Đại sứ quán Canada ở Hà Nội. Diệm từng sống ở Mỹ đầu thập
niên 1950 và không ngừng tìm kiếm sự ủng hộ của chính quyền
Eisenhower quay lại chính trường. Là một con chiên ngoan đạo, sống nhiều
tháng trong một trường dòng Thiên Chúa Giáo ở New Jersey và xem mình
có sứ mệnh cứu vớt đồng bào khỏi sự đe dọa của bọn cộng sản vô thần.
Lúc đầu Washington ủng hộ Diệm dè dặt vì nhiều quan chức Mỹ xem
ông là một thầy tu không thực tế, thiếu tư chất của một người lãnh đạo và
không phải ứng cử viên nghiêm túc để trở thành nhà lãnh đạo chính trị. Một
quan sát viên Mỹ khinh bỉ gọi ông là “một thiên sứ không mang thông
điệp”. Không nản lòng, Diệm tiếp tục sấn đến các nhà ngoại giao Mỹ xin
lời khuyên, tìm kiếm người bảo trợ trong chức sắc Thiên Chúa Giáo ở Mỹ,
bao gồm Hồng y giáo chủ Francis Spellman và Joseph Kennedy - cựu đại
sứ Mỹ tại London.