Nam sẽ thống lĩnh - là khá cứng rắn, Washington khó chấp thuận. Năm sau,
tình hình ở miền Nam được cải thiện nhiều theo quan điểm Hà Nội, dù
chính phủ Diệm vẫn còn yếu, Hồ Chí Minh thừa nhận Diệm là một đối thủ
đáng nể, vẫn chiếm được đa số khu vực bầu cử có nhiều người ủng hộ.
Đảng cần phải dàn xếp thoả đáng để có thể giảm thiểu quyền lực của Diệm.
Hồ kêu gọi các đồng chí miền Nam cố gắng tranh thủ cảm tình, sự ủng hộ
của tất cả mọi tầng lớp nhân dân, trong lúc chờ đợi Washington tỏ thái độ.
Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Nhật Bản vào tháng Bẩy, Hồ nhận xét,
theo kinh nghiệm của ông, bất chấp thái độ của giới lãnh đạo Mỹ, nhưng
nhân dân Mỹ rất yêu chuộng hoà bình và tiến bộ. Ông nói, câu trả lời duy
nhất giải quyết vấn đề, Mỹ phải rút hết quân để nhân dân Việt Nam có thể
tự giải quyết công việc nội bộ theo Hiệp định Geneva.
Tuy nhiên quan điểm lạc quan thận trọng của Hồ về một giải pháp
thương lượng không được sự ủng hộ hoàn toàn trong Đảng. Tại hội nghị Bộ
Chính trị tháng 12-1962, giới lãnh đạo Đảng đã kết luận, cuộc chiến tranh ở
miền Nam là cuộc chiến tranh chống đế quốc và cần phải tăng cường cả
đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang. Một chỉ thị bí mật gửi vào Nam
nhấn mạnh, vấn đề chắc chắn phải giải quyết bằng vũ lực, với mức độ
chiến tranh leo thang dần từ thấp đến cao. Dù tài liệu này không công khai
hạ thấp những hoạt động chính trị và đặc biệt bác bỏ chủ trương quân sự sử
dụng trong kháng chiến chống Pháp, cho rằng làn sóng cách mạng miền
Nam bắt đầu lên cao trào và câu hỏi duy nhất trước mắt là khi nào và lực
lượng vũ trang sẽ sử dụng theo hình thức nào. Bản chỉ thị tiên đoán chiến
tranh sẽ gắn liền với cuộc nổi dậy của quần chúng và cuộc tổng tấn công
của Quân Giải Phóng - tức là kết hợp Cách mạng tháng Tám và mô hình
Maoist chiến tranh nhân dân ba giai đoạn.
Tuy không rõ ai là tác giả của những chỉ thị này, song có vẻ nó phản ánh
quan điểm của Lê Duẩn, nhà chiến lược ở Hà Nội, luôn luôn tin vào một
thắng lợi bằng quân sự. Trên thực tế, Lê Duẩn chế giễu Hồ Chí Minh miễn
cưỡng quay lại cuộc đấu tranh vũ trang và không còn chỉ dựa vào ngoại
giao, điều mà Lê Duẩn có lẽ cho là ngây thơ. Duẩn có lần đã nói: “Bác